Cái gì phải đến
cuối cùng cũng đã đến, cuối năm 1969 con đường hoãn dịch vì lý do học vấn của
tôi bị chận đứng, dễ hiểu vì tôi ‘đạp vỏ chuối’ thi rớt, nên phải theo gót các
bạn cũng kém may mắn như tôi, lên đường thi hành nghĩa vụ người trai thời loạn,
kể ra thì số mạng cũng đã dành cho tôi nhiều đặc ân lắm rồi, nếu so với những
thằng bạn thân đã phải tòng quân đi làm nghĩa vụ quân sự, từ hồi vừa xong bậc Trung
học, trong đó có thằng nay đã yên giấc ngàn thu. Tuy mọi con đường đều dẫn ra
bãi chiến trường, nhưng mỗi con đường mang tính chất khác nhau, mỗi người tùy
theo sở trường, sở thích và hoàn cảnh riêng, chọn lựa cho mình một mầu áo chiến
thích nghi, Hải, Lục, Không quân thôi thì đủ cả. Bây giờ là lúc tôi phải chọn
lựa cuộc đời binh nghiệp cho mình, cá nhân tôi nếu được đặc ân tự do chọn lựa thì
tôi thích lái máy bay hơn, vì giữa vòm trời bao la một mình một cánh chim sắt
bay lượn trên đầu thiên hạ, trông lả lướt và lãng tử, cảm giác hẳn là thú vị
lắm, và tha hồ mà tung mây xé gió và mơ ước:
“Ngả nghiêng cánh
chim con tàu xé trời rời xa thành phố rồi.
Mây giăng thật thấp, mây đan lụa trắng mây pha màu nắng.
Vượt cao vút cao mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần.
Tuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương”.
Mây giăng thật thấp, mây đan lụa trắng mây pha màu nắng.
Vượt cao vút cao mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần.
Tuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương”.
[Tuyết Trắng / Anh
Chương Trần Thiện Thanh]
Nhưng với vóc dáng ngoài tiêu chuẩn của tôi, thì làm chàng
phi công chỉ là một giấc mơ huyền ảo, vì ai cũng biết, ngay cả Hoa Kỳ cũng chỉ
có loại phi cơ thám thính không người lái, chứ làm gì có chiến đấu cơ không
người lái, nói chi là Không lực VN, Không quân chê tôi là cái chắc; Còn binh
chủng bộ binh, tôi thật sự cũng hám cái danh Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, nghe oai
phong lẫm liệt, cứ nhìn vào mề huy chương đầy ngực áo, của những sĩ quan ưu tú
các đơn vị lừng danh, dữ dằn như Dù, Biệt động hay Thủy quân lục chiến, trong
những ngày diễn binh là đủ biết “chì và gan lì” cỡ nào rồi, mà máu tôi thì không
có chất “chì”, gia phả giòng họ nhà tôi năm đời qua, cũng chẳng có cụ nào làm
quan võ cả, mà tiêu chuẩn chọn lựa vào cũng không phải là dễ. Những năm trong
đời học sinh, hễ có đánh lộn là tôi lảng ra xa, có lần bọn du đãng “xóm chùa
Tam Tông Miếu” chận đánh bọn thằng Chỉnh, cùng học lớp tôi sau giờ tan học, tôi
vừa xuống cầu thang nghe ồn ào có đánh lộn ngoài cổng, thế là tôi chuồn êm ra
cổng hông, đạp một mạch về nhà, thực hành đúng quy luật “tránh voi chẳng xấu
mặt nào” cho yên chuyện, chúng bạn chế nhạo tôi là thằng chết nhát, còn Trường
Bộ Binh Thủ Đức ư, nghe tên là hãi rồi, vì thiên hạ cứ đồn rằng, ra trường sớm
muộn gì thì cũng gặp ông sáu, ám chỉ cái quan tài, tôi đã từng nghe kể, có khóa
ra trường một thời gian ngắn sau chỉ còn phân nửa. Hay chắc có lẽ tại hồi nhỏ
tôi ăn “thỏ đồng” hơi nhiều, nên đôi chân hơi lạnh, nôm na gọi là “nhát như thỏ
đế”, theo giới bình dân là ‘lạnh cẳng’; Cho nên chỉ còn binh chủng cuối cùng,
tôi có hy vọng lọt qua cửa ải đó là Hải quân, dù binh chủng này trông có phần
lính cậu, lính kiểng quá. Nghĩ cho cùng làm quan tầu thủy vẫn đỡ hơn, khỏi phải
lội sình mà chữ ‘THỌ’ cũng to, ai tin con người có số mệnh thì tin, nhưng né
được thì tôi cứ né, được lúc nào hay lúc ấy. Tuy nộp đơn nhưng cũng chỉ nộp cầu
may thôi, chứ tôi cũng không chắc gì cho lắm, vì tôi qúa nhẹ cân, sợ họ chê lên
tầu lại phải cột dây móc vào lan can, hay lúc nào cũng phải mang áo phao cấp
cứu vào người, cho khỏi bị gió bay xuống biển thì mất mặt bầu cua hết.
NHỮNG NGÀY THÁNG ĐẦU ĐỜI QUÂN NGŨ
Vào khoảng tháng 10
năm 1969, tôi được gọi đi khám sức khỏe tại bệnh viện Hải quân ở bến Bạch Đằng,
Sàigòn; nếu như đối với các bạn khác chuyện khám sức khỏe là đồ nhỏ, thì đối
với tôi nó cũng gay go không kém gì vào thi vấn đáp, mà gặp các thầy hắc ám, nên
tôi cũng phải chuẩn bị, chứ không dám coi thường. Sáng hôm đi khám tôi thận
trọng, để phen này không đạp nhầm vỏ chuối nữa, tôi ngốn vào một khúc bánh mì
thịt thật to, nửa tiếng sau thêm một tô cơm nguội, trên đường đi nốc thêm hai
chai coca-cola, tôi đã tính kỹ phải thêm ít nhất 3 kg, thì mới hy vọng “Qua cơn
bĩ cực tới hồi thái lai”, vì vốn dĩ, không những với vóc dáng rất khiêm nhường của
người Việt Nam bình thường, tôi còn ốm yếu gầy còm sau nhiều năm dồi mài kinh
sử, rút cuộc sôi hỏng bỏng không. Suốt buổi sáng ngồi chờ đến phiên vào khám,
vì số thanh niên khám sức khỏe hôm nay rất đông, tôi phải cố ôm bụng ngồi yên
một chỗ, hà tiện mọi cử động, vì sợ cử động nhiều sẽ phải xả nước, chờ cho đến
khi khám xong, nhờ thế mà tôi hội đủ tiêu chuẩn trọng lượng, và vượt qua điều
kiện sức khỏe để đầu quân làm sĩ quan Hải hồ. Trong lúc chờ đợi, tôi để ý thấy
mấy anh chàng y tá cứ nhìn nhau tủm tỉm cười, mỗi khi cân đo mấy anh nhỏ con,
ốm tong như tôi, mà sao cái bụng thì cứ phình ra, giống y như bị sán lải ấy,
nhưng mấy chàng rành cái mánh này hơn rành sáu câu vọng cổ rồi, thức ăn nuôi
thân còn chưa đủ, thì lấy đâu dư mà nuôi sán lải!; Ngay sau khi khám xong tôi
thở phào nhẹ nhõm, ù té chạy đi tìm chỗ để tháo xú-bắp không thì bể bong bóng
mất. Sau này khi xuống đơn vị đầu tiên, chiếc Y tế hạm Hàn Giang, HQ401, tôi
lại được nghe mấy chàng thủy thủ y tá kể những câu chuyện vui cười này, có anh
còn thêm mắm thêm muối rằng, có nhiều ống đựng mẫu nước tiểu trông giống
như nước coca cola vậy? tôi chỉ còn biết cười trừ nói cho qua “Phịa vừa vừa
thôi mấy cậu!”
Ngày 1 tháng 12
năm 1969 tôi đi trình diện nhập trại, hành trang là cái túi xách với một bộ đồ
và vài cái quần lót, tới công trường Mê Linh để vào khu vực Hải quân, tôi xuất
trình giấy nhập trại cho người Quân cảnh gác, anh em tôi thả xe rề rề theo bến
Bạch Đằng, dưới những hàng me rợp bóng mát, rồi dừng chiếc xe gắn máy Honda,
phía bên kia đường đối diện cổng trại, tôi chào tạm biệt anh rồi tần ngần bước
xuống đường, đứng yên lặng lẽ nhìn qua, sau cái cổng sắt mong manh mở rộng, bên
trên có hàng chữ trại Bạch Đằng II, trong sân lố nhố đầy người, toàn thanh niên
trai tráng, đại đa phần trông trẻ măng, mặt non chọet, ồn ào hỗn độn, áo quần
lẫn lộn, vừa dân sự, vừa nhà binh, nào khaki vàng, nào khaki tím, có nhiều
chàng mang cầu vai con cá Alpha, có chàng chẳng có gì, tiếng hò hét của mấy anh
chàng vào trước om sòm, ỏm tỏi kêu gọi các người mới đứng vào hàng yên lặng.
Mặc dù đây không phải là trung tâm huấn luyện quân sự, nhưng cái mùi lính, hòa
lẫn sự ngột ngạt vô hình của chiến tranh phủ kín không gian, y hệt như cảnh trong
các phim chiến tranh thời Đệ Nhị thế chiến, phảng phất mùi ám khí, làm tinh
thần tôi trùng xuống, lòng tôi tràn ngập những cảm xúc bồi hồi, xúc động, xen
vào một ánh lửa hãnh diện vừa thắp lên le lói, không ngờ hôm nay tôi cũng nhập
cuộc, “chạy trời không khỏi nắng”. Chỉ cần hai mươi bước băng ngang con đường,
vảo bên trong cánh cổng kia, tôi sẽ không còn đời sống dân sự, tự do bay nhẩy,
muốn đi đâu thì đi, muốn hú bạn bè cà phê cà pháo lúc nào cũng được, muốn ăn,
muốn ngủ tùy ý, tôi sẽ trở thành một con người hoàn toàn khác, một anh lính mới
tò te, một người máy chỉ biết thừa hành mệnh lệnh, tôi chợt nghĩ những ngày
tháng tới sẽ phải đi qua các quân trường, liệu tôi có vượt qua được thời kỳ
huấn nhục, nghe kể thì phải là mình đồng da sắt, nhẫn nhục lắm mới chiu đựng
nổi, mà tôi thì nóng tính, cũng đâu có khỏe mạnh gì cho cam. Cho dù sau này có
được tung hoành ngang dọc, vẫy vùng biển cả, như những cánh chim hải âu ngoài
hoang đảo Hoàng Sa, Trường Sa, mà mấy anh thủy thủ trong xóm thuật lại, lên đảo
chỉ thấy toàn một mầu trắng của phân chim, và trứng rùa bao phủ, đã cho tôi một
hình ảnh thật sống động, lãng mạng, hứa hẹn những khám phá ly kỳ cho cuộc đời
thêm phong phú, nhưng giây phút này, trong lòng tôi dấy lên đôi chút hồi hộp do
dự, lẫn tiếc nuối, tôi muốn kéo dài thêm khoảnh khắc của mầu áo dân sự, và mái
tóc bồng bềnh, đang phất phới tung bay theo những cơn gió thoảng nhè nhẹ, thổi
vào từ giòng sông Sàigòn. Dù tôi cũng đã có thời gian mặc đồ rằn ri Biệt Kích,
súng đạn kè kè bên hông cách đây chỉ mới vài năm, nhưng những năm đó tôi làm
việc không có gì ràng buộc, không có khế ước, không quân số,thích thì ở không
thích thì chuồn. Tuy tôi có ngửi mùi khói súng hàng ngày, nhưng chỉ là khói
súng ngoài bãi tác xạ, nó hoàn toàn khác với đời sống, của một quân nhân thực
thụ; Tôi đứng tần ngần vài phút, trong khi ấy dăm ba chiếc xe gắn máy cũng vừa chờ
tới, dù gì thì tôi cũng phải vào trình diện, nên hăng hái băng qua đường nhập
đoàn với họ đi vào cổng trại, dăm chàng sinh viên sĩ quan quân phục tím đã ngả
mầu, chiếc Alpha trên vai áo cũng ươm gió sông hồ, chuyển qua mầu vàng đục,
không còn óng ánh hào quang, luôn đứng chờ sẵn gần cánh cổng, thấy chúng tôi
vào có hai chàng tiến ra, một anh ngước mặt nhìn chúng tôi, dưới cái vành mũ
cát-kết kéo sụp xuống che gần hết con mắt nếu nhìn thẳng, chận trước mặt chúng
tôi, hai tay chống ngang nạnh hất hàm hỏi: “Các anh đi trình diện sinh viên Sĩ
quan (SVSQ) hay tân binh?” chúng tôi trả lời “SVSQ”, anh ta hất cánh tay ngoắc vào
phía trong, và kèm theo một mệnh lệnh “Các anh đi theo tôi”, chúng tôi vội vàng
theo sau anh ta, vào gần tới thềm căn nhà, anh ta quay lại bảo chúng tôi “Các
anh đứng sắp thành hàng một tại đây”, chúng tôi đứng thành hàng, anh khác bảo
“Đưa tôi xem giấy tờ trình diện nhập ngũ!” mỗi người móc túi lấy giấy tờ đưa
cho anh ta, anh ta cầm coi từng cái một, rồi hạ lệnh “Các anh hãy đứng đây chờ,
để tôi vào trình Ban nội vụ làm thủ tục nhập trại”, chừng nửa tiếng sau, thủ
tục nhập trại của chúng tôi vào tài khóa SVSQ/Hải quân khóa 21 hoàn tất. Trong
lúc chờ đợi tôi đảo mắt nhìn xung quanh, thấy có một số các bạn sinh viên
trường Khoa Học như NV Bút (Bút mập), PV Tú, PV Khiết (trâu nước), HV Hải, Bùi
Thọ Xung mà chúng tôi thường gọi đùa là Lệnh Hồ Xung, NT Hùng (Hùng tây lai),
cũng gia nhập khóa này, nên tôi cũng thấy an tâm và một phần nào đỡ lẻ loi.
Ngày tôi vào trình
diện, có cả thẩy 21 người, cộng chung với các bạn cùng vào trong tháng để lập
thành đại đội mới, trên bực thềm khá cao của khu nhà tạm trú, ngang gần đến vai
tôi, mấy anh chàng vào trước như Minh Tề, Lý Tỷ, Đấu, Đ.Quy đứng ra kêu gọi bầu
các chức vụ sinh viên khóa sinh tạm thời cho Đại đội, tôi tuy nhỏ con, nhưng
nhờ giọng hét lớn nên cũng leo lên ứng cử, cùng với P Ban, TM Dũng và NV Điềm,
NV Báu và NTHùng. Kết qủa là Minh tề được bầu làm khóa sinh Đại Đội Trưởng
(ks/ĐĐT), Lý Tỷ, Báu ks/kỷ luật; tôi và ba bạn nữa ks/Trung đội Trưởng (Tr.ĐT),
những tuần lễ kế tiếp là những ngày nhàn hạ, sáng vào trình diện, làm tạp dịch
và nhặt rác chung quanh trại, tập cơ bản thao diễn, đến xế trưa được cho về
nhà, vì ngôi nhà tạm trú trống trơn, mặt sàn xi măng bóng loáng, đã được lê lết
chà láng từ bao thế hệ đến hôm nay, loe ngoe chục cái giường sắt hai tầng,
chẳng có bàn ghế, tủ giả gì cả, cũng không có đủ chỗ chứa tất cả sinh viên, dù
là xếp kiểu nêm cá hộp trên sàn nhà, và cũng nghe đồn đãi, trại đỡ phải tốn tiền
nuôi cơm, cho những sinh viên cư ngụ quanh vùng Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định.
Ngày ngày tôi có nhiệm vụ dẫn Trung đội tập đi ách-ê từ trại Bạch Đằng II vào
trong Hải quân công xưởng (HQCX), vừa đi vừa nghêu ngao hát bài Hải quân hành
khúc. Chúng tôi vừa tập đi đều bước vừa đếm nhịp, điệp khúc cứ thế lập đi lập
lại cho tới khi dừng chân, cũng may tôi đã có chút ít kinh nghiệm quân sự, nên
dẫn hàng di hành không khó khăn, mỗi lần đếm vè tôi cố lấy giọng khàn khàn gằn
nhịp “hai-ba” sau mỗi câu hát, khiến cả đám cười rộ. Con đường từ bến Bạch Đằng
vòng qua Cường Để, là con đường các quan lớn bé ra vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân
(BTL/HQ) và HQCX tấp nập, nên tôi phải canh chừng, ra dấu cho toán đi đứng ngay
ngắn, tránh ồn ào, và phải chào tay lia chia mỗi khi thấy các quan lái xe ngang
qua.
Tài nguyên khóa 21
được gọi nhập ngũ ồ ạt nên khá đông, có đến trên năm trăm người, cũng nhờ thời
gian tạm trú ở đây, chúng tôi biết nhiều bạn mới, mà đến bây giờ sau hơn 38 năm
vẫn còn nhớ tên, hình dung được vóc dáng và khuôn mặt của thời trai trẻ, tuy có
thể lầm lẫn họ, dù hầu hết tôi đã không có may mắn gặp lại, hay chung đơn vị kể
từ khi rời quân trường Quang Trung, như Phan Ban, NVKế Ba, BV Cao, LA Châu, NV
Cư, NV Khá, P Chín, NX Chiến, NK Chinh, NT Chương, NHưng Đạo, NV Đài, NV Đấu,
NV Điềm, NG Huấn, LM Huệ, NT Lịch, TV Minh, NK Hoàn Mỹ, G. Nam, G. Ngưu, NV
Nghiêm, PV Ngâu, HD Ngân, ĐV Nhu, VV Pho, TH Phương, NH Phuớc, TT Phước, Kha Tư
Quốc, HV Rẫm, NH Sơn, NV Tâm, PG Thắng, TĐ Thịnh, ĐS Thu, ĐV Toản, NQ Tụng, GH
Tuyên, NV Vạng và anh chàng cùng xóm NV Ba tự Ba gà, tuy chung xóm nhưng Ba và tôi
không biết nhau cho đến khi nhập ngũ. Thời gian tạm bợ ở đây chấm dứt đúng vào
ngày cuối năm 30 tháng 12, chúng tôi được lệnh lên đường, đoàn xe GMC dài thườn
thượt, nối đuôi nhau rời bến Bạch Đằng, trực chỉ Trung tâm huấn luyện Quang
Trung (TTHL/QT), chấm dứt những ngày nhàm chán vô vị, ăn chực nằm chờ ở Bạch
Đằng II.
Theo một số bạn bè
và nhiều nguồn tin thì có đến khoảng từ 530 đến 560 tân khóa sinh thuộc tài
khóa 21 SVSQ/HQ, đã được đưa xuống TTHL/QT để theo học khóa 1-70 căn bản quân
sự bộ binh. TTHL/QT nằm cạnh tỉnh lộ, chung quanh bao bọc bởi những dãy hàng
rào kẽm gai, cùng giao thông hào, với những chòi canh cao chia đều bốn mặt, mặt
trước có tường xây, trước cổng chính một lô cốt đắp kiên cồ bằng mấy hàng bao
cát cao tới đầu người, trong có họng súng đại liên 50 đen ngòm chĩa ra ngoài
chực chờ nhả đạn, cổng xây bằng gạch sơn vàng, trên có tấm bảng sơn lớn vắt
ngang với hàng chữ nổi “Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung”, xe chạy vào con
đường chính, che phủ bởi những tàng cây Điệp, cây Bã Đậu to lớn, cành lá xum
xuê, tôi để ý thấy tất cả những con đường ngang dẫn vảo các khu đại đội khóa
sinh, mọi gốc cây trong trại, và cả những hòn đá to xếp đều đặn dọc hai bên
đường, đều được quét vôi trắng, hai bên bờ hào nhẵn bóng, đó là công trình lao
động của bao nhiêu lớp trai thế hệ “chà láng” mỗi buổi sáng, qua bao nhiêu năm
tháng dài, suốt từ ngày thành lập cho tới nay.
Sau đó chúng tôi
được đưa vào Liên đoàn B, Tiểu Đoàn Trương Tấn Bửu, và chia thành 3 đại đội,
18C, 19D và 20E, tôi thuộc Đại đội 19D cùng với hầu hết các bạn nhập ngũ cùng
đợt, Minh Tề làm ks/ ĐĐT được chừng 1 tháng, NT Hùng lên thay; PV Tú ks/ĐĐP; NV
Báu và Lý Tỷ ks/Kỷ luật, ĐT Nam, tôi và hai bạn nữa ks/Tr.ĐT. Mỗi đại đội ở
trong hai dãy nhà lợp tôn nằm song song, chung quanh có giao thông hào, giường
ngủ là những cái giường 2 từng, đứa nằm trên, thằng nằm dưới, ở Quang Trung
chúng tôi được học cách sử dụng vũ khí cá nhân, bò hỏa lực, vượt chướng ngại
vật và chiến thuật tác chiến cá nhân, tiểu đội, trung đội. Những sinh hoạt hàng
ngày rất bận rộn, kẻng báo thức từ 5 giờ sáng, dậy làm vệ sinh cá nhân, phòng
ngủ, giường, chiếu ngăn nắp sạch sẽ, vệ sinh doanh trại, bao gồm nhặt rác, “chà
láng” giao thông hào, vòng bao chung quanh những gốc cây Bã Đậu, tất cả đều đắp
bằng đất, chà láng là công việc bẩn thỉu và cực nhất, vì nếu chà không láng thì
cả đại đội sẽ bị phạt, chúng tôi phải dùng “cà-mên” ăn cơm để chà thay vào cái
‘bay’ của mấy anh thợ nề, vì vậy những cà-men ăn của chúng tôi bóng sáng như
gương. Sau khi làm vệ sinh xong Đại đội mới xếp hàng đi ăn sáng, và đúng 7 giờ
chúng tôi di hành ra bãi học tập, với ba-lô quân trang, súng ống và dụng cụ
xẻng cuốc cá nhân đầy đủ. Từ mọi ngả đường trong quân trường dẫn tới các cổng,
từng đại đội với cờ xí phất phới bay nối đuôi nhau, hàng hàng lớp lớp, những
người con cưng của Tổ quốc, vừa đi vừa hát những bài quân ca như “Đường trường
xa muôn vó câu bay dập dồn…” hay “Ngày bao hùng binh tiến lên …”, những đại đội
khóa sinh Hải quân thì thêm bài “Bao người con trai kiêu hùng cùng nhau tách
bến,…”, hoặc “Đây Vân Đồn ngày xưa với tiếng ca oai hùng,…”, vân vân … Có những
bãi xa cách nhau vài cây số, với trang bị xấp xỉ gần khoảng từ 15 tới 20 kg
trên lưng, di chuyển giữa buổi trưa trời nắng chang chang, từ đằng xa đã nhìn
thấy những đám bụi đỏ tung bay mịt mù, hệt như vó ngựa phi trên xa mạc của
những chàng kỵ binh Hoa kỳ, trong những phim cao bồi miền Tây hoang dã (The
Wild Wild West), mới thấm thía cái mệt và sức nặng của nó, đứa nào cũng mồ hôi
nhễ nhại. Nhưng nhờ vậy mà mau đói, ăn nhiều mới có sức chịu đựng, cho dù những
bữa cơm chẳng ngon lành gì cả, vào giờ cơm trưa thì có xe GMC của quân trường,
mang cơm ra từng bãi học, tụm năm túm ba từng nhóm ngồi dưới gốc cây thấp lè tè
ngoài bãi, hay chia xẻ nhau một khoang nhỏ trên nền đất trơ trụi, dưới bóng mát
của những lớp học lợp tôn không vách, ăn uống ngon lành, những khóa sinh nhà
gần thì được gia đình tiếp tế thêm phần đồ ăn mặn, nhờ vậy các khóa sinh nhà ở
xa có thêm phần ăn, tôi thì lúc có lọ muối vừng, lúc lon thịt trà bông, hay
thịt rang mắm ruốc, nên cũng nuốt được nửa cà-men cơm. Ngoại trừ khóa sinh chức
sắc như ĐĐTrưởng, ĐĐPhó, Trung Đội Trưởng được mang súng cạc-bin, các khóa sinh
còn lại phải mang trung liên, tiểu liên, súng trường garant tùy theo vóc dáng cao
thấp. Tết năm đó có lệnh cắm trại, chúng tôi phải ăn cái tết quân ngũ đầu tiên
ở Quang Trung, trừ vài khóa sinh có gốc “gộc”, con ông cháu cha được cho đi lén
đặc biệt, còn tất cả phải ở lại ứng chiến, cũng may có khu vườn Tao ngộ, để
khóa sinh tiếp đón thân nhân những ngày cuối tuần, vơi bớt những nhớ nhung,
thèm thuồng, vui và nhộn nhịp không thể tả nổi, còn hơn cả hội chợ tết, như
nhạc sĩ Nhật Hà đã diễn tả:
“Hôm nay ngày chủ nhật, vườn tao ngộ em đến thăm anh,
“Đường Quang Trung nắng đổ xa xôi
“Mà em đâu có ngại khi tình yêu ngun ngút cao lên dần,
……
“Tiếng nói cùng tiếng cười, giờ tao ngộ lưu luyến bên nhau”
(Vườn Tao Ngộ - Nhật
Hà)
Tuy vậy nhưng không đến nỗi ồn ào như chợ cá, vì hình như đã
có những sự thỏa thuận ngấm ngầm bất thành văn, tuy là chuyện kín hoàn toàn
riêng tư, nhưng cần phải có, dù là ở giữa nơi công cộng, mọi người cũng thông
cảm, lính trẻ mà, không ai phàn nàn hay khiếu nại. Hình như khu vườn Tao Ngộ
mới được nới rộng thêm sau này, vì chỉ có nửa sân, có bóng mát của những tàng
cây to lớn, nửa còn lại những cây còn nhỏ, không đủ che hết trọn sân, nên rất
nắng, nhưng những cặp vợ chồng trẻ xa xôi, những cặp tình nhân lâu ngày không
gặp, thì họ cũng chẳng cần bóng mát, gặp mặt nhau là đã mát từ trong lòng mát
ra rồi, nên họ thản nhiên dắt nhau ra riêng góc xa xa, lao tâm mới sợ, chứ còn
nắng một chút không sao, rồi những cái poncho được mở rộng ra, không phải để
trải ngồi, mà để phủ lên người đớt lửa tình rạo rực, như đôi trăn rừng quấn vào
nhau thầm lặng, giữa buổi trưa trời nắng chang chang. Ba ngày tết cắm trại,
nhưng không phải đi học tập, nhà bàn cho ăn cũng khá hơn, có bánh chưng, thịt
mỡ kho xu-xu xào, chứ không phải cơm canh rau muống nấu sâu với ruồi, và cá mòi
làm chuẩn như hàng ngày cũng đỡ. Mỗi cuối tuần nửa đại đội phải ứng trực tại
trại, một nửa được đi phép hay “đi bờ”, nói theo thủy thủ, tôi thì chuồn nhanh
về với người tình. Tội nghiệp những bạn ở tỉnh lẻ xa xôi nếu có bạn ở Sàigòn
thì kiếm về tá túc, bằng không có thì đành phải ở lại, buồn thối ruột, bù lại
nghe nhiều anh em kể, có nhiều anh chờ đến đêm rủ nhau đi rình, coi mấy cô làm
nhà bàn tắm cũng thú đáo để! Đã con mắt thì đã thật, nhưng coi bộ căng mạch máu
não, và tối ngủ không chừng lại mớ về bài học phòng không, sách súng bắn máy
bay, thanh niên trai tráng, súng đạn sẵn sàng mà!!! Thời gian ở đây tôi khá
thân với Vạng và Chín, Chín! tôi không còn nhớ họ, không biết là Phan hay Lê,
người xứ Quảng, gầy ốm hai quai hàm bạnh ra,đôi mắt hõm sâu trông chẳng khác gì
người ‘anh em bộ đội vượt Trường Sơn” ấy!, tính tình Chín rất vui, chưa nói đã
cười hề hề; bây giờ hỏi chẳng ai biết tông tích ra sao; Còn Vạng, con trai độc
nhất, người Nam, thay vì hắn được hoãn dịch, nhưng chẳng hiểu tại sao lại đăng
vào hải quân, hay có lẽ chán học rồi, ở nhà chẳng biết làm gì chăng, nhà ở khu
Nguyễn Thiện Thuật, Bàn cờ, sau khi rời Quang Trung, Vạng cùng một số đông các
bạn khác đi Thủ Đức khóa 1/70, ra trường nghe nói về làm Quân cảnh HQ. Cũng
trong khóa huấn luyện này, còn có nguyên một Đại đội Giáo chức, trong đó gồm
các Giáo sư Đại học, Trung học ở Sàigòn, họ ở bên liên đoàn A. Tội nghiệp cho
mấy ổng, nhiều ông trông thật thiểu não, từ trước tới nay chỉ biết cầm cục phấn
vẽ trên bảng đen, và đi đâu thì cũng một bước lên xe, hai bước xuống ngựa, vào
đây di hành trên đôi ống khuyễn khẳng khiu cả chục cây số, lại được mấy ông
Thượng sĩ già, một chữ i-tờ-rít cắn cũng không gẫy làm hai săn sóc, canh chừng
từng giờ ăn giấc ngủ, dạy bắn, tháo ráp vũ khí, hay mấy anh sĩ quan cấp nhí,
không đáng học trò, dạy mấy bài chiến thuật chiến lược, nghĩ cũng buồn cười!
Hình như cái màn này do ông Thiếu Tướng Không quân Cao Bồi bầy ra thì phải?
Có vào đây chứng
kiến, người ta mới thấy được cái ảnh hưởng của chiến tranh, và sự tai hại vô
cùng lớn lao của nó, không phải chỉ là sự tàn phá về tài nguyên vật chất mà
thôi, nhưng kèm theo sự hủy hoại tài nguyên nhân lực, và năng lực của Quốc gia,
tôi thầm nghĩ cho dù sau này nếu chiến tranh có kết thúc, cũng phải mất cả hai
ba thế hệ, và nhiều thập niên mới gây dựng nổi, vì tất cả những năng lực để
kiến thiết và xây dựng đất nước, tương lai của Tổ quốc đều đã trở thành công
cụ, trong guồng máy chiến tranh khổng lồ, của các thế lực ngoại nhân trên thế
giới, buồn thay cho thân phận nhược tiểu, sự thiếu khôn ngoan của những người
lãnh đạo, lèo lái con thuyền quốc gia, và cái chủ thuyết cộng sản vô thần dị
hình Mác-Lê. Như mọi người, khi nộp đơn tình nguyện vào SQHQ, chúng tôi chỉ nghĩ
là sẽ được đào tạo tại TTHL/SQHQ ở Nha Trang, chứ không hề biết là có thể sẽ được
gởi đi học ở các quân trường khác; Ngay cả các người trong Hải quân cũng không
biết, nếu không làm việc trực tiếp với các ban kế hoạch và đào tạo tại BTL/HQ. Trên
thực tế từ đầu năm 1969, BTL/HQ đã có chương trình gởi SVSQ đi thụ huấn tại các
quân trường bộ binh trong nước, và gởi đi học hải nghiệp tại Hoa Kỳ, song song
với việc đào tạo SQHQ tại trường HQNT, cho kịp cung ứng nhu cầu sĩ quan cần
thiết, nhận bàn giao những chiền đĩnh, chiến thuyền do quân đội Hoa Kỳ trực
tiếp điều khiển hiện nay, trong kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh, vì quân
trường Nha Trang không thể đào tạo kịp thời, nên đã cho thành lập Tiểu Đoàn
SVSQ/HQ Trần Hưng Đạo (THĐ), để đón nhận những SV đủ khả năng Anh ngữ về học bổ
túc, và gởi sang trường đào tạo SQ trừ bị HQ Hoa Kỳ (Naval Officer Candidate
School / NAVOCS). Khi chúng tôi đang thụ huấn căn bản quân sự ba tháng tại
TTHL/QT, thì được lệnh gọi về thi sát hạch Anh văn, hầu hết sinh viên bắt buộc
phải dự thi, và những ai đạt đủ khả năng 60% sẽ được về học Anh ngữ bổ túc. Mặc
dầu thời gian ở trung học, bắt đầu từ lớp đệ Ngũ, Anh văn là sinh ngữ chính của
tôi, nhưng sau khi hết bậc trung học, tiếng Anh tiếng u cũng chẳng ra thể thống
gì, đọc thì chữ hiểu chữ không, còn nghe thì ù ù cạc cạc, như “vịt nghe sấm”
chữ thầy lại trả cho thầy, thôi thì cứ đổ lỗi cho thầy là xong vì “con hư tại
cha mẹ, học trò dốt tại thầy”. Cũng may trong thời gian tôi làm Huấn luyện viên
ở Vũng Tầu, thường được nghe các sĩ quan cố vấn hướng dẫn và huấn luyện, cho dù
có thông dịch viên, nhưng cũng quen quen giọng phát âm, nên cũng nghe lõm bõm,
chữ được chữ không, A-B-C thấy câu trả lời nào, có chữ na ná giống như trong
câu hỏi là khoanh; chó ngáp phải ruồi, tôi cũng lọt vào danh sách được tuyển chọn,
nên rất vui mừng khi biết mình sẽ được về học Anh văn để đi Mỹ thụ huấn, khỏi
phải ra TTHL/HQ/NT hoặc lên quân trường Bộ binh Thủ Đức, ngẫm nghĩ lại cuộc đời
quả là may rủi. Đêm hôm đó chẳng hiểu vì vui, hay buồn vì nghe tiếng đại bác ì
ùng từ xa vọng về, làm tôi không ngủ nổi, bất chợt nhớ một buổi sáng năm nao,
trong bộ quân phục rằn ri đứng trên đồi cát bãi sau Vũng Tầu, đón những ngọn
gió muối từ biển thổi vào, nhìn bình minh ló dạng dưới chân trời, xa tít mù
khơi, nơi mặt trời và đại dương gặp nhau, tôi đã thẩm hỏi không biết có bao giờ
trong đời, mình vượt được khỏi lằn ranh chân trời kia chăng! Sau 3 tháng học ở
QT, chúng tôi được chia làm ba nhóm, trên 80 SVSQ về Sài gòn tiếp tục học Anh
ngữ, khoảng 270 SVSQ được đi thụ huấn khóa 21 SQHQ tại TTHL/HQ/NT, số còn lại chúng
tôi tạm cho là kém may mắn, vì không toại với ý nguyện hải hồ của chúng tôi khi
nộp đơn vào HQ, trong đó hơn phân nửa những người bạn đầu đời quân ngũ, thân
nhất của tôi được gởi đi trường Bộ Binh Thủ Đức, để tiếp tục huấn luyện quân sự
sĩ quan Bộ Binh. May mắn thay! sau này các bạn cũng được gởi đi học bổ túc Hải
nghiệp các khoá đặc biệt, tại TTHL/HQ/NT và tại OCS các khóa 10, 11 & 12 để
trở thành các sĩ quan Hải quân thực thụ, tiếc thay một số bạn bè chúng tôi đã
đền nợ nước trước khi giấc mộng hải hồ thành tựu. Xin thành tâm thắp nén nhang
lòng khấn nguyện Phật, Chúa hãy cho linh hồn các bạn được thảnh thơi trong cõi
Niết Bàn và Thiên Đàng, chẳng qua số phần các bạn ngắn ngủi, nên gĩa từ cuộc
chơi ở chốn tạm dung này sớm vậy thôi.
SVSQ/HQ/TĐ/TRẦN HƯNG
ĐẠO – APL – BOAST SCHOOL
Sau vài ngày nghỉ
phép, chúng tôi, những sinh viên về học Anh ngữ đi trình diện Tiểu Đoàn Sinh
Viên Sĩ Quan Hải quân Trần Hưng Đạo (TĐ/SVSQ/HQ/THĐ), tại tạm trú hạm nổi
APL9050, cặp ngay cuối đường Cường Để và bến Bạch Đằng, bên cạnh Câu lạc bộ nổi
Hải quân. Tôi và Ba gà rủ nhau đi cùng, chúng tôi đi chung xe taxi, xe vừa qua
cửa Bộ Tư Lệnh HQ nhìn về phía trước, trong cái công viên nhỏ cạnh bờ sông
sàigòn, ngay dưới chân cầu tạm trú hạm, tôi đã thấy có khá đông người, khi
chiếc xe ngừng lại bên công viên, nhìn kỹ hơn trong hàng rào lưới thép tạm dựng
ngăn khu vực công viên ngang hai chiếc tạm trú hạm, để làm chỗ cho SVSQ tập họp
điểm danh, có đến vài chục bạn bè đã vào trình diện, và đang được các sinh viên
liên đội A (ks/SV l/đ), chăm sóc kỹ lưỡng bằng đủ mọi thứ hình phạt, phía bên
ngoài thân nhân và dân chúng hiếu kỳ đứng bu quanh đứng xem, tiếng la hét của
các SV ra hình phạt, chộn lẫn với tiếng gào lập lại của các SV bị phạt, hòa
thành một thứ âm điệu hỗn tạp kỳ quái, không giống bất cứ một thứ sinh hoạt nào
ngoài xã hội, tôi mường tượng đến những đêm trời mưa ở miền quê, tiếng côn
trùng rả rich ca, đủ mọi loại, đủ mọi giống thi nhau rỉ rả, hay những buổi trưa
mùa hè, đi ngang vườn Tao Đàn, nghe tiếng ve kêu than ầm ĩ trên từng mỗi tàng
cây, lúc trầm lúc bổng, như một giàn nhạc đại hòa tấu đang chơi khúc nhạc thúc
quân, có âm có điệu, có vè hẳn hòi, thì đằng này một thứ âm thanh trái ngược,
chói tai, không nhịp điệu, thi nhau diễn võ dương oai phát ra từ mọi nơi, mọi
góc của cái khu công viên nhỏ này. Tôi và Ba gà vừa bước xuống xe đã được vài
SV LĐ/A tiếp đón ngay bên lề đường, bằng ba chục cái thăng-thiên độn-thổ (ttđt)
với ba-lô trên đầu, tiếp theo là ba mươi cái hít-đất, nhưng chỉ được chừng hai
mươi cái là tôi xuội lơ hết gượng nổi, liền có tiếng quát “Tiếp tục không được
nghỉ, và đếm to lên”, tôi cố gắng hết sức mình nhổm lên, vừa hít ì ạch, vừa đếm
một cách chậm chạp, hai mươi mốt, hai mươi hai, …, sau khi hít xong, tôi đứng
lên trình diện, chàng ta thấy tôi nhỏ con ốm tong, mặt mũi hiền lành, da xạm
đen vì nắng cháy quân trường chưa có thời gian phai mầu, và lại trông lớn tuổi
hơn nên có lẽ tội nghiệp không phạt tiếp, bảo tôi vào xếp hàng chung với đại
đội, Ba gà thì vẫn bị phạt tiếp tục, vì tướng tá cũng bệ vệ lắm. Đứng trong
hàng, lén nhìn về phía gốc cây dừa trước mặt bên bờ sông, năm sáu sinh viên
đang bu quay hai sinh viên, hò hét inh ỏi, người đang thi hành lệnh phạt một tướng
cao cao, da ngăm đen đó là MVL, hai tay để trên đầu đang nhẩy thăng thiên độn
thổ, còn người tầm vóc vừa vừa, có cái vai lệch là bạn TMD, mà anh em tặng cho
hắn biệt danh D mát, bị trồng cây chuối ngược (tccn) bên gốc dừa, trồng cây
chuối là một cực hình, vì phải đưa ngược chân lên trời, cả sức nặng của cơ thể
chịu trên đôi cánh tay, chì dăm phút là máu dồn xuống mặt, chịu không nổi, đôi
tay khụy xuống liền, tôi đoán chắc nó đã bị hình phạt này lâu rồi, vì có hai
đàn anh giữ hai chân nó tựa vào thân cây dừa, mặt hắn đỏ bừng bừng, tay nó vừa
chùng xuống, đã có tiếng quát tháo “Anh thẳng tay lên, không được để trùng như
vậy”, nó cố gượng tay lên thì hai SV bỏ tay giữ ra, thân hình nó đổ bịch về
phía trước, nó nằm ì trên mặt đất, lại có tiếng quát “Anh đứng dậy, không được
nằm bệt như vậy, anh có biết anh làm ô uế bộ đồ HQ không?” nó lồm cồm bò dậy
cãi: “Tôi hết sức rồi, cho tôi xin nghỉ một chút”, có tiếng đàn anh quát:
- “Anh dám cãi lời
niên trưởng hả? Quân đội không có xin với xỏ”
- “Tôi không cãi nhưng
trồng hết nổi”, nó trả lời,
- “Trồng không được
thì ttđt”, lại có tiếng quát tiếp
- “Anh làm năm mươi
cái ttđt cho tôi coi”, tiếng chàng khác xen vào
- “Tuân lệnh”, hắn lờ
đờ nói
- “Nhỏ qúa không
nghe, nói to lên”, SV khác quát!
- “Tuân lệnh”, nó bực
tức hét lớn
Một chàng cao rong rỏng, da ngăm ngăm, bộ quần áo tím đã bạc
thếch, và cái mũ đen cũng đã ngả mầu nhợt nhạt, lụp xụp che ngang hai con sâu
róm, bước tới trước mặt nó, vẻ mặt lầm lì, hai tay chống nạnh ngước tầm mắt lên
nhìn, quát tháo “Anh tuân lệnh ai!”
Nó lại phải dơ tay chào, cũng ngửng
đầu cao, mặt xáp mặt và hét lớn “SVSQ TMD, số quân …Tuân lệnh niên trưởng”
những chữ cuối cùng nó cố tình hét khiến nước miếng dăng tùm lum, anh chàng SV
phạt nó phải bước lùi về sau, quay mặt đi rút khăn tay lau mặt, cũng để dấu nụ
cười đắc ý, trong bụng chắc cũng nghĩ thầm “Thằng này thuộc loại hàng thiệt,
chứ không phải hàng lô (lô-can)!” để xem mày chịu được cỡ nào?
Trong khi đó MVL vẫn bị hành hạ
tiếp tục, cũng không kém phần khổ ải, có lần hắn tức quá xừng xộ lại “Hãy trả
tôi về lại đơn vị cũ”; còn HVH và một vài bạn khác, cũng không thoát, khắp
chung quanh một khoảng đất nhỏ bé chưa bằng một góc của sân đá banh, chỗ nào
cũng có cá nhân bị phạt đơn lẻ, những sinh viên này dưới mắt của SV đàn anh, là
những người chống đối lì lợm, ương ngạnh, cần phải được săn sóc đặc biệt tận
tình, huấn nhục đến nơi đến chốn, còn đa số chúng tôi bị phạt tập thể từng nhóm
nhỏ, như một hình thức huấn luyện thể dục, tương đối câu giờ được, tuy cũng mệt
bở hơi tai. Trong tuần lễ đầu chúng tôi bị SV l/đ A, mà tôi tạm dùng danh xưng
“đàn anh” trong tuần huấn nhục, quay suốt ngày từ sáng sớm cho đến 12 giờ đêm
mới được đi ngủ, và chỉ được tha vào giờ ăn uống, (Sở dĩ tôi dùng chữ “tạm gọi”
ở đây vì sau tuần lễ huấn nhục, thì bất cứ SV thuộc liên đội nào hễ đủ điểm Anh
ngữ, là được đi Mỹ trước, các SV có trình độ Anh ngữ thấp hơn sẽ ở lại tiếp tục
học, và sẽ đi các khóa sau, khi đủ khả năng), như vậy thì sau tuần lễ huấn nhục
chưa biết ai sẽ là SV đàn anh hay đàn em, dù hiện tại chúng tôi sắp hàng theo
LĐ A, B, C tùy thời gian vào trước hay sau. Các trò huấn nhục tập thể ở đây
gồm, thăng thiên độn thổ, hít đất, bò hỏa lực, đi chân vịt [ngồi xổm hai tay
chống nạnh mà lệt bệt, miệng thì kêu cạc cạc], đứng lên ngồi xuống, những trò
chơi vui khác như, mèo kêu, chó kêu, vịt kêu, đánh trống, thổi kèn, đánh đờn
bằng mồm, ca hát, hoặc réo tên cha, tên mẹ, tên ngưởi yêu, là chuyện bình
thường, vô phúc anh nào có đào trùng tên với đào của đàn anh “niên trưởng”, thì
kể như được lôi ra “thăng thiên độn thổ” là cái chắc; nhưng nhiều khi chẳng cần
lý do, khi muốn thì mấy ảnh cứ phịa ra để mà phạt cho vui. Những hình phạt nặng
như, trồng cây chuối ngược [vắt hai chân lên hàng rào, chổng đầu xuống đất, tay
chống thẳng lên], “kéo xe La-Mã [nắm hai chân kéo ngửa trên mặt đất], thường
chỉ được dùng đối với những sinh viên bị quay riêng rẽ, bởi những đàn anh hung
thần mà thôi. Sinh viên liên đội B bị quay nhiều nhất là TMD, MVL, HVH và một
vài người nữa; Ngay chiều đầu tiên có một sinh viên bị quay tới sỉu hay giả vờ
sỉu ở gốc dừa, mà tôi không nhớ tên, bị ks/đàn anh múc xô nước sông dội vào mặt
cho tỉnh lại, rồi phạt tiếp. MVL cũng nghe kể ngay đêm đầu tiên đã bị đàn anh
gọi lên sân thượng của APL quay xỉu tại chỗ, L chỉ có mỗi cái tội là hay cãi,
cao lớn nước da ngăm đen, còn thật ra thì trông cũng không có vẻ lì hay dữ dằn
gì cho cam; còn D mát, với bạn bè tôi thấy hắn cũng tốt, duy có điều làm người
ta chú ý và ghét vì cái vẻ mặt kên kên của hắn, và tướng đi khùynh khuỳnh, vai
trái nghiêng hẳn sang một bên, nghe bạn học của hắn kể lại với ít nhiều thán
phục, hắn cũng có “nghề” và thuộc loại ‘chì’ từ trước khi vào lính, vì thế mà
hắn được chiếu cố tận tình. Nghe nói thường thì những SV đàn anh khóa trước hay
săn tin, để ý lấy tên của những SV khóa sau cần được lưu ý, cho vào sổ đen và
truyền tay nhau, ngay từ khi họ mới bước chân vào trại Bạch Đằng II, đôi khi
cũng có trường hợp không thích nhau từ ngoài dân sự cũng không chừng, hoặc có thể
những ngày cuối tuần đi bờ, vào sở thú chọc ghẹo phỗng tay trên đào của niên
trưởng! Vấn đề “quay” hay “huấn nhục”, phần vì đã được các sĩ quan cán bộ Tiểu
đoàn cho phép, phần khác bắt chước truyền thống của các quân trường sĩ quan,
nhưng cũng có thể dù rất ít nghĩ ,vì các chàng đều đã phải đi thực tập, dòng dã
nhiều tháng trên các chiến hạm, rất cực khổ, đã bị các sĩ quan quay phờ người,
nên bây giờ thấy SV các liên đội sau, chỉ phải học có ba tháng quân sự ở Quang
Trung, đã được về đây học sinh ngữ, sướng qúa, nên được dịp quay lại cho hả cơn
ghanh tị chăng. Khi l/đ C & D nhập tạm trú hạm, họ cũng chịu những hình
phạt tương tự, trong số những người bị chú ý có Liêm, Lễ, Hùng, LsThắng, LĐ
Phồn, Ph rất hiền, tính tình thẳng thắn, tướng tá phốp pháp to lớn cũng bị quay
dữ, tôi cứ phải kiếm nước uống dúi cho Ph, sau thì nó đi khóa 23NT, ra trường
về làm đài kiểm báo Vũng Tầu cho đến khi mất nước, đi tù cải tạo và mất trong
tù, buồn thay cho những người trai dũng, bị chết tức tưởi; Thường những chàng
bị quay nhiều, thì lại dễ trở thành “hung thần” của các khóa sau. Nghe Hùng gà
tồ kể rằng được một đàn anh để ý, vì đã chót cùng học chung với hắn ở Chu văn
An trước khi vào lính, có lần Hùng bị quay giữa buổi trưa trên boong tầu dưới
trời nắng chang chang, có ai mà không biết boong tầu sắt buổi trưa nóng cỡ nào
rồi, lại có đêm Hùng được kéo lên sân thượng nhẩy Tango, đến quá nửa đêm mới
thôi, chỉ vì tội ai bảo hồi xưa anh ham mê văn nghệ. Trong khi đó một niên
trưởng liên đội A khá lùn, thì lại chuyên lùng những tên đàn em cao ráo ra quay
“Tại sao anh dám cao hơn niên trưởng?”, có đứa đùa chọc lại “Thưa không phải là
tôi cao, nhưng tại vì niên trưởng không được cao đấy thôi”, thế là anh ta chống
nạnh hét ầm lên “Anh dám chọc quê niên trưởng hả”, và 30 cái hít đất tặng cho
đàn em làm qùa. Vì APL không phải là một trung tâm huấn luyện, nên vấn đề huấn
nhục được thực hiện ngay bên lề đường của khu bến tầu, cạnh bờ sông, mặc cho
thiên hạ bàng quang qua lại ngó nhìn với vẻ bực bội lắm, trong lòng họ chắc
đang rủa thầm, “Cái lũ ngợm ranh con này sao nó hành hạ người ta dữ thế”, nhưng
thực ra họ không biết, so với Nha Trang hay Đà Lạt, thì nó chẳng thấm thía vào
đâu hết. Trong khi có những sinh viên hắc ám, mà ai cũng biết danh như PXTL,
NVB, ĐVC, …của LĐ A và TMD, MVL, HVH của LĐ B, thì cũng có những chàng rất dễ
thương như TVN và NMÁ, bản tính hai chàng này cũng văn nghệ văn gừng, nên khi
thấy sinh viên nào bị quay nhiều qúa, các chàng móc anh ta ra chỗ khác ngồi tập
hát, để câu giờ cho đỡ bị hành hạ, bây giờ thỉnh thoảng gặp lại nhau kể chuyện
huấn nhục thấy vui vui. Tôi thì chả bao giờ có tên trong bảng phong thần, cũng
như hung thần, và phải đợi mãi đến đợt OCS 6, mới lọt tên vào danh sách “gìa
dịch” vì không có cùng tần số.
Hết tuần huấn
nhục, chúng tôi được mang Alpha trên vai áo và bắt đầu đi học Anh văn, ở dãy
nhà bẩy, tám tầng lầu nằm ngay góc đường Duy Tân và Hiền Vương, khu Tân Định,
có tên gọi “ESL Boat School” có tường che và rào kẽm gai chung quanh, có lưới
chắn trên các hành lang, vì sợ đặc công VC ném lựu đạn khủng bố, mỗi buổi sáng
sau khi ăn điểm tâm, chúng tôi được chở đi học bằng những chiếc xe GMC, không
mui hay có mui tùy theo ông trời vui hay buồn, dọc theo đường Cường Để, rẽ ra
Đại lộ Thống Nhất rồi quẹo trái sang Hai Bà Trưng hướng về Tân Định, trưa lại
được chở về, ngồi trên xe khi di chuyển, các chàng SVSQ/HQ trong bộ đồng phục
xanh biển, đôi cá vàng lấp lánh trên vai, chiếc mũ cát-kết đen mới toanh, và
giải dây kim tuyến vàng óng viền trước, hát những khúc nhạc quân hành vang vang
trong sương ban mai, trên đường gặp các cô nữ sinh đi học, các chàng không bao
giờ bỏ lỡ cơ hội mà chọc ghẹo, đôi khi gặp cô nào ôm mộng có người yêu thủy
thủ, muốn được nghe các chàng thủ thỉ:
“Cho anh thì thầm
“Em ơi tình mình trắng như hoa đại dương” [Hoa Biển / Anh
Thy]
Thỉnh thoảng nhận được sự đáp lại bằng những nụ cười tươi
mát, hay những cái nguýt dài đáng yêu, bằng không, gặp những cô đài các, chua
ngoa, thì là những câu rủa thầm “Đừng có mơ, em à”. Cuối tuần Đại đội nào trực
thì ở lại, còn không thì được đi bờ, trong đời sống quân ngũ, phải nói đây là
thời gian rất sung sướng nhất, vì nhàn hạ chẳng phải làm gì ngoài việc học và
trực gác, gác ở trường Boat School, nghe nói có sinh viên bị ma quấy, nhưng ít
người trực tiếp. Nghe kể có nhiều chàng chốn học, khai bệnh ở nhà rồi lẻn ra sở
thú tán gái, nhất là lại có các em Trưng Vương ngay kế bên, còn gì thơ mộng
bằng, tuy nhiên nghe mấy bạn cũng là vua vào sở thú kể rằng, hễ mấy cô mà gặp
mấy anh chàng mặc quân phục đã bạc mầu, là mấy cô chạy mất, vì nhẵn mặt qúa
rồi, chả biết có đúng không! Phần nhiều bạn cùng liên đội với tôi, đã lần lượt
đi sang Mỹ học bắt đầu từ khóa 3, tôi cũng hồi hộp mong đi sớm, nhưng vì vốn
liếng Anh ngữ qúa giỏi nên phải kéo dài thời gian học tới 5 tháng trời, lẹt đẹt
lọt lại mãi đợt 6 mới được đi.
Nói về Tiểu Đoàn
SVSQ Trần Hưng Đạo, khóa OCS có tổng cộng 12 đợt, sấp sỉ 750 sinh viên, mỗi đợt
khoảng trên dưới sáu mươi người tạo thành một khóa cỏn con, cách nhau chừng 5,
6 tuần, như vậy toàn khóa OCS từ 1 cho đến 12 chỉ kéo dài hơn 1 năm rưỡi. Vì
các SVSQ thuộc tất cả mọi liên đội, tùy theo khả năng sinh ngữ, đi trước hay
sau lẫn lộn, 3 đợt sau cùng bao gồm cả các bạn SVSQHQ bị gởi đi thụ huấn ở
trường bộ binh Thủ Đức trước đây, giờ đã là SQ, và các SQBB được tuyển sang HQ.
Vì thế sau khi ra trường tất cả chúng tôi đều được gọi chung là khóa OCS, không
có “đàn anh” hay “đàn em” như ở các quân trường khác, và cho đến bây giờ chúng
tôi đều là những người bạn “mày tao” rất thân thiết với nhau. Thời gian tạm trú
tại APL để học Anh Ngữ, tôi không có kỷ niệm với bạn bè, vì chưa từng bao giờ
đi chơi hay dạo phố chung với anh em, ngoài việc học, thời gian và đầu óc còn
dành cho người tình, ngay kể cả những người huấn luyện viên dạy Anh ngữ tôi
cũng không nhớ, chỉ còn nhớ mỗi anh chàng Trung sĩ đen đen dạy tiếng Anh, vì sau mỗi giờ học anh
chàng bắt cả lớp lập đi lập lại câu “I am all tired out, let hit the rack” (tạm
dịch là “tôi mệt phờ rồi, hãy đi nghỉ thôi”) , chúng tôi cũng được chứng kiến,
nhiều đêm các sĩ quan cán bộ của Tiểu đoàn, trong đó có bạn vừa mới ra trường
từ OCS, như PXTL chồng chất nhau trên chiếc xe jeep cũ kỹ, mò mẫm trở về giữa
đêm khuya, ông nào cũng “say mềm” người, cười cợt, ăn nói huyên thuyên, nhất là
ông Th/Tá CB Tiểu Đoàn Trưởng, 10 đêm đi nhậu về thì hết 9 đêm, ông vừa xuống
xe đã ngã đổng kềnh xuống đất, ói mửa tùm lum, sinh viên chúng tôi trực gác cầu
tầu, nhìn những cảnh này thấy cuộc đời sao vui qúa là vui! Sau này tôi về Giang
Đoàn cũng lại gặp ông ấy, không trách người xưa đã nói “ghét của nào trời trao
của đó”, tôi không thích nhậu nhẹt, thì lại gặp ổng, hũ rượu chìm, cộng thêm
các tay lưu linh như PXTL, NQL, cũng may ông ta cũng biết, nên luôn tìm cách
tống tôi đi chỗ khác chơi, cho khỏi vướng mắt. Có đi lính mới thấy cuộc đời
binh ngũ, nếu không có đủ những thứ sau thì qủa là thiếu xót lớn, nếu ở ngoài
đời, xã giao thường phải có “Điếu thuốc miếng trầu, làm đầu câu chuyện” thì
trong nhà binh nó cũng không có ngoại lệ:
“Không đĩ, không
binh, anh không là lính
“Không biết uống
rượu, anh chưa thật tình’
“Không hút thuốc lá,
không biết nhẩy rào
“Không ngày trọng
cấm, không phải nhà binh”
Mà tôi thì từ thưở
đời nào tới giờ vẫn chỉ
“Thuốc nửa điếu,
rượu một ly
“Đĩ thời xa lánh,
binh thì tí ti”
KHÓA 6 / OCS
Naval Officer
Candidate School, (NAVOCS)
Hai tuần trước khi
lên đường, chúng tôi được gởi đi may hai bộ quân phục tại một nhà thầu ở Phú
Nhuận, một bộ mầu cà phê sữa cho các ngày lễ lớn và một vest đi bờ mầu đen, vừa
lấy đồ xong thì ngày lên đường cũng đã tới, lại tốn ít tiền mua thêm một cặp
Alpha, dây biểu chương, mũ nón, và huy hiệu hải quân để lên đường cho phù hợp
với quần áo mới. Trong lòng tôi ngập tràn nỗi háo hức bồn chồn, xen lẫn cả niềm
hãnh diện của người sinh viên được đi thụ huấn ở ngoại quốc, không ngờ trong
cuộc đời, mình lại có ngày được xuất ngoại, học hải nghiệp tại một trường đào
tạo Sĩ Quan Hải quân Hoa Kỳ, có người thanh niên nào mà chẳng mơ ước, cho dù là
du học dân sự, hay đi thụ huấn quân sự thì cũng thế thôi, cũng là dịp mở rộng
tầm mắt, sang nước người học hỏi những cái hay điều lạ. Hai năm trước khi còn
đời dân sự, tôi tiễn thằng bạn Không quân lên đường sang Hoa Kỳ học bay, tôi
bảo nó “mày thật diễm phúc, tao cũng ước ao được như mày”, nhưng vẫn nghĩ chẳng
bao giờ có, vì nhà nghèo làm sao mà lo nổi sở hụi, bây giờ tôi chẳng phải mất
xu nào cũng được đi, nên rất mừng, hôm tôi sắp đi, mấy thằng bạn tụ tập tiễn
chân, thằng bạn Không quân nhắc lại “Bây giờ thì mày có còn mơ ước được như tao
không, hay là lại chê chả thèm làm lính không quần hả?”.
Đợt 6 OCS rời Việt
Nam đi Mỹ vào khoảng cuối tháng 8 năm 1970 [hình như ngày 25], cất cánh từ phi
trường quân sư Biên Hòa, trên một chiếc phi cơ dân sự, vì trong chuyến bay này
ngoài chúng tôi, 67, 68 sinh viên VN, số còn lại toàn là quân nhân Hoa Kỳ trở
về nước, phi cơ dừng cánh ở Tokyo và Alaska, trước khi bay về miền đông Hoa Kỳ.
Tại phi trường ở Alaska, lần đầu tiên trong đời tôi đã chứng kiến những hình
ảnh, mà ngày trước tôi chỉ thấy trên sách báo và phim ảnh, tuy chỉ là một góc
cạnh nhỏ nhoi trong đời sống của xã hội Mỹ, đó là những người nhân công nữ đang
ở ngay trước mắt tôi, bên ngoài làn kính của khu nhà chờ đợi, với những bộ đồ
lạnh và găng tay dầy cộm, đầu đội mũ lông trừu trùm xuống tận mang tai, họ đang
lái những chiếc xe vận tải tiếp tế nhiên liệu cho phi cơ, công việc mà ở nước
tôi là của đàn ông, không mấy khi đàn bà phải làm công việc nặng nhọc tay chân,
khiến cho tôi có một cảm giác là lạ, cảm phục sinh hoạt bình đẳng, trong đời
sống xã hội tây phương. Phi trường trống trải, yên tịnh, rộng bát ngát trải dài
trước mắt tôi, tất cả mọi thứ, từ những dụng cụ nặng, đến nhẹ, xe cộ và cả
người làm việc chung quanh bến đậu của phi cơ, nổi bật trên mặt đất phủ toàn
một mầu trắng xóa. Sau gần một ngày bay, phi cơ hạ cánh ở phi trường quân sự McGuire,
tiểu bang New Jersey, xuống sân bay, những người lính Mỹ qùy xuống hôn mặt đất,
một cử chỉ bầy tỏ sự biết ơn Tổ quốc và Thượng Đế, đã cho họ được an toàn trở
về quê hương. Từ đây chúng tôi được đưa về trường bằng xe buýt, trên đường đi
chúng tôi được phát mỗi người một hộp giấy cho khẩu phần trưa, gồm Hamburger,
khoai tây chiên dòn (potato chip) và một lon Coke, đồ ăn lạ miệng nên ai cũng
ăn ngon lành, và hầu như mọi người quên cả mệt nhọc, háo hức ngó trước nhìn
sau, bao con mắt đổ dồn ra ngoài cửa sổ để nhìn cảnh vật bên đường, trong lòng
ngập nỗi vui mừng. Phần đông các bạn thuộc liên đội C, D biết và thân với nhau
hơn, nên mọi người nhao nhao bàn tán đủ thứ, tôi tự nhủ thầm không ngờ những ao
ước của tôi dã thành sự thật, bây giờ tôi cũng được đặt chân tới quốc gia hùng
mạnh, và văn minh nhất thế giới này. Xe chạy xuyên qua những cánh rừng thông
xanh ngát, xa lộ sạch sẽ rộng thênh thang phẳng lì, lúc thẳng tắp, lúc uốn khúc
quanh co theo đồi núi chập chùng, chạy không ngừng nghỉ, chẳng có đường cắt
ngang, đôi lúc qua những thành phố lớn, có những tòa nhà cao ngất ở đằng xa,
các khu thương mại, xe cộ đủ mầu sắc đậu đầy ngay hàng thẳng lối, rất trật tự
trong những bãi đậu mênh mông, trong lòng tôi tràn đầy một cảm xúc lâng lâng là
lạ, thật khó mà tả nổi bằng ngôn từ, chỉ có thể dùng hai chữ tuyệt vời, đây qủa
là thiên đường hạ giới, cái cảm nhận sơ khởi khi đặt chân tới vùng đất hứa lần
đầu, không gian thật mênh mông, cỏ cây xanh tươi, sạch sẽ và thanh bình qúa,
khác xa với những điêu tàn đổ nát, bởi bom đạn cày tung từng mảnh đất, thửa
vườn trên quê hương tôi, tôi chạnh lòng bùi ngùi, xót thương cho thân phận
nhược tiểu, qúa khổ đau và nghèo nàn, hết bị đô hộ bị lệ thuộc bởi ngoại nhân,
thì lại rơi vào cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, chỉ vì nặng đầu óc bè
phái, kỳ thị và chia rẽ trải qua bao thế kỷ, đã thấm sâu vào huyết quản của
người Việt tôi, tệ hại hơn nữa là cái chủ thuyết cộng sản nguy hiểm, thâm độc
chủ trương cai trị bằng bạo lực và khủng bố, đã thống trị một nửa phần quê
hương, và đang cố tình thâu tóm toàn cõi Việt Nam, đặt dưới sự thống trị của chúng,
mà nhân dân tôi thì chưa đủ ý thức và trình độ, để tự thoát ra ngoài vòng kiềm
tỏa, của các thế lực chính trị trên thế giới.
Càng đi sâu về miền Đông Bắc, nhà cửa trông càng
cổ kính, và những thành phố càng yên tịnh hơn, rồi khi xe di chuyển trên chiếc
cầu New Port, bắc ngang eo biển Rhode Island, nối liền bán đảo Conanicut với
New Port, tôi thấy chiếc cầu xây đẹp qúa, cao vĩ đại qúa, ông Trung Úy Mỹ, sĩ
quan hướng dẫn chỉ cho chúng tôi biết ngôi trường chúng tôi sẽ đến, nằm về
hướng trái phía trước bên bờ vịnh, chúng tôi nháo nhác nghển cổ ra nhìn, chỉ
thấy những tòa nhà gạch đỏ nhiều tầng nằm trên một bán đảo nhỏ, xa xa một chút,
có nhiều chiến hạm đậu bên những cầu tầu. Khi gần tới cuối cầu, xe dừng lại tại
một cái trạm nhỏ đặt ngay giữa cầu, tôi quan sát thấy mỗi chiều lưu thông có
hai trạm, mọi người tò mò nhốn nháo hỏi nhau, ai cũng muốn biết xem xe đậu làm
gì, mấy anh chàng ngồi trước, khi thấy người tài xế trả tiền, tranh nhau nói
vọng lại, người nói “xe trả tiền cước phí qua cầu”, kẻ ra điều hiểu biết hơn
“xe trả tiền tollway”, hiện tượng này trên xứ tôi làm gí có, cho dù đi từ Bến
Hải xuống tận mũi Cà Mâu, cũng đâu có mất đồng xu nào, chỉ có điều chạy chậm như
con bò, ngày này qua ngày khác, ba bốn ngày mới tới nơi. Trên con đường vào
trường, quanh co lên xuống những triền đồi nhỏ thoai thoải, hai bên có những
hàng cây xanh, và những căn nhà kiểu cổ sơn phết sạch sẽ, nằm lưa thưa bao bọc
chung quanh bằng những sân cỏ bằng phẳng tươm tất, khung cảnh đẹp và thanh bình
qúa. Xe chạy ngang một khúc kề ven biển, tôi nhìn đằng xa dưới bến tầu khoảng
chục chiếc đủ loại, nào là Khu Trục Hạm với những cột radar mầu đen ngạo nghễ, Tuần
Dương Hạm mầu sương xám, hai ba chiếc tầu ngầm đen thâm thẩm, và có cả Hàng
không mẫu hạm nữa, tất cả nằm in lìm bất động trong bến tầu, xe cộ đậu rải rác
trên bãi, và cũng không thấy lính tráng nhiều. Gần vào cổng trường, tôi nhìn
đồng hồ, thấy xe đã chạy mất khoảng trên 4 tiếng đồng hồ, xe ngừng trước một
cái trạm nhỏ chỉ có hai quân nhân gác, quần tím, áo kaki mầu cà phê sữa, đầu
đội mũ cát-kết trắng, giầy đen bóng loáng, chẳng có anh nào mang súng, bên phải
là căn nhà thiếc mái vòm, bên trái là bãi đậu xe, xa phía trước một tòa nhà đúc
đồ sộ, bốn tầng đó là King Hall về sau tôi mới biết đó là nơi trú ngụ của liên
đoàn khóa sinh Hoa Kỳ, nằm cuối cái sân rộng thênh thang, có những con chim hải
âu đang lởn vởn trên sân, bên trái sân là ba dãy nhà ba tầng gạch đỏ, chạy song
song với nhau. Người lính gác nhìn lên xe thấy vị sĩ quan nhà trường, anh ta
ngoắc tay cho xe chạy vào, hai chiếc xe nối đuôi nhau chạy thẳng về trước, rồi
rẽ vào tòa nhà 3 dẫy bên trái và ngừng lại trước sân dẫy lầu giữa. Bây giờ là cuối
tháng tám, trời có lẽ đã vào thu, thời tiết rất mát, ánh nắng vàng nhẹ nhàng
bao trùm cảnh vật, trải trên thảm cỏ xanh tươi, hai bên sân, mỗi bên ba bốn cây
không cao lắm, trông tưạ như cây Điệp quê nhà, tàng cây thưa thớt lá, không đủ
che nắng, tôi tự nhủ đây là trường đào tạo Sĩ quan trừ bị Hải quân Hoa Kỳ, hay
gọi tắt là NAVOCS, một trung tâm quân sự không có lấy một hàng rào kẽm gai,
cũng chẳng có tường xây bao bọc, không một tiếng động, yên tịnh qúa, tôi đoán,
chắc có lẽ các khóa sinh còn đang đi học, khung cảnh thật êm đềm và thanh bình,
chẳng bù với quê tôi đêm ngày nghe tiếng đạn bom, bất cứ căn cứ quân sự nào
cũng có hàng hàng lớp lớp rào kẽm gai bao quanh, chưa kể mìn chon, mìn nổi
Claymore khắp nơi, lạng quạng là banh xác pháo, dân chúng không ai được bén
mảng lại gần. Chúng tôi được gọi xuống xe xếp thành hàng ba ở giữa sân, có hai
ba sinh viên VN ra đón, tôi nhận ra một người, Uông Tô thuộc liên đội B trước
đây, các chàng cho biết đây là Nimitz Hall nơi tiểu đoàn khóa sinh VN trú ngụ.
Đứng dưới bóng dâm của tòa nhà, hưởng những ngọn gió Đại Tây Dương đầu đời từ
ngoài vịnh thổi vào, khiến cho ai nấy đều cảm thấy khoan khoái, tuy hơi lành
lạnh. Mặt trời đã ngả phía sau tòa nhà, tôi nhìn lên hai dẫy lầu ba tầng, chi
chít những khung cửa sổ nhỏ cách nhau đều đặn, đó là những phòng ngủ của sinh
viên, phía trước mặt một dẫy nhà ngang nối liền ba dẫy nhà. Trung Úy Awe và mấy
khóa sinh chức sắc VN, chỉ khu trú ngụ của chúng tôi nằm ở tầng chệt của ba dẫy
nhà, sau đó chúng tôi được phân thành ba Đại đội: Tango, Uniform và Victor, Đại
đội Tango ở dãy ngoài cùng cạnh với sân trường, Uniform ỡ giữa, còn Victor nằm
phía ngoài trông ra vịnh. Sau đó chúng tôi được hướng dẫn vào phòng, cất hành
lý và chuẩn bị đi lãnh đồ mặc ấm cho mùa Thu và Đông, mỗi Đại đội chúng tôi ở
đối diện nhau, qua một hành lang nhỏ và dài, mỗi phòng có hai cái giường sắt,
hai tủ sắt đứng, và hai bàn học nhỏ cho hai khóa sinh. Tôi chung phòng với TN
Diệp, phía cuối dẫy; đối diện phòng tôi là phòng ĐK An và D Âu, cặp này chỉ
được một đêm là tan rã, hôm sau An xin qua ở phòng với LĐ Quang, N Cần chung
với NH Phú, PN Kính với LĐ Thuận, LM Sang với NV Tường, NC Liêm với ĐK Nam, TM
Hiệp với HV Hùng. Tôi không nhớ sự sắp xếp này là do tự lưạ chọn hay là sắp đặt
bởi các khóa sinh chức sắc, nhưng càng về sau thì càng thấy, đó là một sự sắp
xếp rất khéo léo vả hòa hợp, gỉa sử như Diệp chung với Kính hay Tường, thì chắc
nó điên mất, hay Hiệp mà chung với Thuận, thì nó cũng phát khùng thôi. Sau khi
xếp hành trang gọn vào trong tủ, tôi nhìn ra cửa sổ, ngoài sân vài Đại Đội sinh
viên các khóa 3, 4 và 5 trong quân phục kaki vàng đang đi đều bước trên đường
về, chàng nào trông cũng trắng trẻo mập mạp, má hồng hây hây như những cô gái
Đà lạt, đẹp trai hẳn ra, khác hẳn những khuôn mặt ngăm ngăm đen thùi lũi, áo
quần bạc thếch ở bến Bạch Đằng mới hôm nào, cách nay chưa tròn vài tháng. Cái
khung cảnh cũng như sinh hoạt ở đây khiến tôi cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, tạm
thời quên đi những đoạn đường chiến binh gian khổ “Thao trường đổ mồ hôi, chiến
trường bớt đổ máu” ở quân trường Quang Trung, quên đi những đêm oi bức nóng
nực, thiếu ăn, thiếu uống ở APL, nhìn về tương lai những ngày tháng tới, ít ra
cũng là những ngày huy hoàng trong đời quân ngũ, tôi thấy mình đã qúa may mắn,
so với những người bạn khác giờ này đang ở Thủ Đức hay Nha Trang, chợt thương
những người bạn cùng khóa, kém may mắn hơn chúng tôi bị đưa đi Thủ Đức, có thể
đang phải lõm bõm lội sình tác chiến.
Trong tổng số 67,
68 sinh viên của đợt này, chỉ có 9 sinh viên liên đội A, 15 sinh viên l/đ B, số
còn lại toàn là các bạn l/đ C và D. Phải nói nhiều sinh viên l/đ C, D còn rất
trẻ, có bạn mặt mày non choẹt búng ra sữa, trông như những chú trừu non, ắt hẳn
vừa mới xong Tú Tài, chưa nếm tí ti phong trần của cuộc đời, đã tình nguyện vào
lính để thỏa chí tang bồng hồ thỉ; thụ huấn tại quân trường ở Hoa Kỳ, còn gì
xung sướng hơn, các chàng này lúc nào cũng hồn nhiên đùa nghịch, như vẫn còn
ngoài đời sống dân sự, vẫn còn là “Nhất qủy nhì ma, thứ ba học trò”, có nhiều
chàng trẻ đến độ mà trong tuần huấn nhục thường hay bị mấy niên trưởng mang ra
chế diễu như “Anh chốn cha chốn mẹ đi lính phải không” hay là “Anh khai gian
tuổi để đi lính hả”, hoặc “Anh đã thôi sữa chưa mà đi lính”, nói vậy để thấy họ
trẻ đến cỡ nào. Tôi thì ngược lại, 5-7 tuổi lớn hơn, còn nặng đầu óc dân sự, và
tính tôi hình như lại có vẻ già trước tuổi, hay tại vì có “đào già” nên mắc
bệnh lão hóa, lúc nào cũng coi mấy người bạn trẻ này là “bé con”, đôi khi tôi
nghĩ nếu biết trước có ngày hôm nay, thì chắc tôi đã đầu quân từ lâu, giờ này
nếu không xanh cỏ thì cũng là Đại Úy rồi, làm gì có được diễm phúc đi chung với
các “cậu Tú bằng dán hình” hôm nay nhỉ, vì thế mà tôi không thân với ai dù là
cùng Đại đội; ngoài giờ học tôi ngồi trong phòng nếu không ôn bài vở thì viết
thơ cho người yêu, trong khi đó các bạn trẻ đùa rần rần bên ngoài hành lang,
may mắn thay, người bạn chung phòng của tôi cũng rất điềm đạm và yên lặng. Có
lần trong Đại đội, một bạn dùng danh xưng “mày” với tôi, tiếng thông thường các
bạn gọi nhau, nhưng đã bị tôi “chỉnh”, cũng may không có ai khác nghe, điều này
làm tôi nhớ mãi, và cho đến bây giờ sau hơn ba mươi tám năm, tôi vẫn thấy mình hơi
qúa đáng, nhất là khi đã thấm được tình đồng đội “huynh đệ chi binh”, và khi
tuổi đời chồng chất, học thêm được cái tình “bạn vong niên”. Đó cũng chính là
niềm cô đơn và thiệt thòi, sau này tôi phải mang theo trong đời quân ngũ, vì
không có một người bạn thân thích khi ra đơn vị, chỉ có vài người bạn tương đối
thân cùng khóa 1/70 Quang Trung, thì đã bị phân tán mỏng trong đại gia đình Hải
quân.
Khi khóa 5 chuẩn
bị mãn khóa, khóa 6 lên đảm nhận chức vụ sinh viên điều khiển (barmen) Tiểu
đoàn, thường khi chọn khoá sinh vào các chức vụ này, các sĩ quan cán bộ Mỹ của
từng đại đội phỏng vấn sinh viên trong đại đội mình, rồi đề cử những sinh viên
ưng ý lên cấp Tiểu đoàn, để Thiếu Tá Mc. Collough phỏng vấn, cùng với sự hiện
diện của các sĩ quan liên lạc Việt nam là Th/Tá Hải hay Đ/U Thiệu. Vì mỗi sáng
sinh viên khóa sinh Tiểu Đoàn Trưởng (ks/TĐT) phải xếp hàng tất cả các đại đội
sinh viên VN trước cửa Nimitz Hall, sau đó hướng về phía đài kỳ của quân trường
nằm bên kia sân, trước cửa King Hall, và hô lớn khẩu hiệu “Tiểu đoàn 5 xin
trình diện / Fifth battalion Pass in review, Sir!” cho ks/Liên đoàn trưởng sinh
viên Mỹ, cho nên khi vào phỏng vấn trong phòng Th/Tá Mc Cullogh, người trông
coi Tiểu đoàn Sinh Viên Sĩ Quan VN, để được chọn lựa, chàng nào cũng phải hô
lớn những câu hiệu lệnh xem có to, rõ ràng và oai nghiêm không. Nghe kể ngoại
trừ Ng Thận, tướng người cao lớn, Anh ngữ rất lưu loát, nhưng chỉ tội cái giọng
dịu dàng, không hùng, còn phần đông tiếng Anh cũng rất thường, cộng thêm âm
điệu nặng nhẹ khác nhau, nghe rất tức cười, riêng sáu NNg tự biết mình không
cao, cũng chẳng to mồm, nên chức Tiểu đoàn e khó, cũng không muốn bắt chước
người, mà chẳng biết hô hoán gì, sực nhớ Đại đội trưởng hô khi đi diễn hành
“Tango company, right shoulder, Arm” bèn buột miệng hô theo, nhưng vì hắn người
Huế, nhỏ con, giọng nhỏ lại thanh thanh,
không có uy, nên người ở bên ngoài chỉ nghe hắn hô na ná như “Tango, cơm bò nì?
nai-xào-bơ, ăn!”, thế mà nó cũng được làm ks/Đại Đội Phó/Tango, chuyện về sáu
Ngọ thì còn nhiểu cái vui. Kết qủa việc tuyển chọn của khóa 6 là: NK Trung khóa
sinh Tiểu Đoàn Trưởng (ks/TĐT); TV Hường ks/TĐP/QS (quân sự); N Thận ks/TĐP/VH
(văn hóa), và LB Dũng ks/TĐP/TL (tiếp liệu). Còn các Đại đội thì có, Tango: NM
Ánh ks/ĐĐT; N Ngọ ks/ĐĐP; Uniform: TV Cương ks/ĐĐT; VĐ Tài ks/ĐĐP/QS và ĐK An,
ks/ĐĐP/TL; còn Victor có: NT Đàm ks/ĐĐT; NN Bạch ks/ĐĐP/QS; NV Siu ks/ĐĐP/TL.
Các Trung đội trưởng gồm Tango: TT Phú, VĐ Thọ và DV Đức; Uniform là NCT D, D.
Âu và NH Phú; và Victor có NM Hùng, hai người khác nay không ai còn nhớ tên. Tôi
vốn dĩ không cao, có với lắm cũng chỉ tới trần nhà, nên suốt từ ngày đầu bước
chân vào lính ở bạch Đằng II, xuống Quang Trung, về APL, rồi qua tới OCS, nơi
nào cũng chỉ lên đến Tr Đội Trưởng, trung đội người nhái là cùng, loại nhái bén
chứ không phải người nhái Navy Seal.
Như đã nói khóa 6
hơn phân nửa là các sinh viên liên đội C & D, nên khi khóa 6 lên nhận quyền
điều khiển Tiểu Đoàn sinh viên, thật tội cho vài bạn tôi khóa đàn anh cũ LĐ A
& B, mang danh là hung thần, sát thủ trong thời gian huấn nhục ở Bạch Đằng,
mà chẳng may lọt vào những khóa sau, thì thế nào trong bụng cũng lo ay áy,
không tránh khỏi đánh lô-tô, sợ mấy thằng đàn em “chơi ngược” thì bẽ mặt; Nhưng
rất may là tinh thần kỷ luật và học tập ở OCS không giống như ở Nha Trang,
không đặt nặng vấn đề đàn anh đàn em, không quay hành xác, nên không có hận thù
hay hành hạ sinh viên đợt sau, ngược lại ai cũng lo chăm chú vào việc học tập
văn hóa và thể thao, tranh đua giữa các đại đội với nhau, vả lại những sinh
hoạt hàng ngày rất ư bận rộn, chẳng ai để tâm đến chuyện quay SV khóa sau,
trong tuần lễ đầu làm quen đời sống quân trường, còn được gọi là “In
processing”, ngoại trừ những SV chức sắc có phận sự hướng dẫn.
Cái điểm nổi bật
của khóa 6 là ks/TĐT đã không được cao, mà hai ks/TĐP, thì lại qúa chênh lệch,
một chàng thì thật cao, còn một chàng thì lại thấp, đứng xếp hàng trông cứ như
đôi đũa lệch ấy. Ngoài ra còn có nhiều hỗn danh nghe rất tiếu như: K ghẻ bên ĐĐ
Tango và K dơ ở Uniform, rất vui tính, văn nghệ nhưng chúa lười; NVTg, cũng
không xiêng, chưa thấy mặt đã nghe tiếng cười, lại hay nói chuyện, nên bạn bè
kêu là T lu bu; Sang nhí, không phải nhỏ tuổi nhất nhưng vì hơi … nhỏ con, nên
nhí là qúa đúng; NVTh NeyHall, bạn bè cho hắn tên này vì hễ cứ tới giờ xếp hàng
đi ăn, là thấy có hắn ở hàng đầu lẹ thiệt, mà những công việc khác thì hắn luôn
là người cuối cùng; NVL mù, tướng tá cao lênh khênh, trẻ tuổi lại đeo cặp kính
dầy cộm, trông cứ như nhà Bác học thông thái, nhưng không học lên cao mà lại
chui đầu vào lính; Quang mèo con, nhỏ nhắn, con nhạn lạc bầy thuộc liên đội A, tọt
xuống đi chung với l/đ C & D, nên lúc nào cũng yên lặng một chỗ ca bài
“Những bước chân âm thầm”, không chuyện trò với ai cả; cu Cần, vui tính người
trẻ thứ nhì trong Đại đội, sau có NHQ, cao lêu khêu lại có cái răng mẻ, không
biết có phải là răng sữa còn sót lại không, nên được đặt cho cái tên Cần sún,
sau này trong giờ học hải hành của chief John, học về những cái phao thắp sáng
(buoy) trên thủy lộ để tàu bè dễ thấy vùng nguy hiểm, thì cu Cần lại đùa dỡn
đọc phiên âm tiếng Việt, làm cả lớp cười
rộ, cu An kèn đã cho cần danh hiệu Cần buôi, ngày đó viết tiếng Anh không có
dấu; Phú thẹo, tướng tá cũng cao ráo, chỉ tiếc cái thời bấy giờ giải phẫu thẩm
mỹ chưa phổ thông, nên bị chết với biệt hiệu này; Hiệp móm, rất hiền lành dễ
tính, cũng đẹp giai, nhưng vì kỹ thuật chỉnh hình răng hàm chưa có, nên đành
chịu không thay đổi được tên; Hùng khờ không trẻ không già, rất hiền, hiền đến
độ nhìn mặt đã thấy khờ, mặc dù cũng rất thông minh; Cương già, mang quân số
liên đội A, đây cũng là một con nhạn lạc tới hai bầy, trông hắn già nhất trong
đám, nhưng kỳ thực hắn còn nhỏ hơn BV Tám và tôi; D.Â, anh chàng này đã không
trắng, lại còn dữ, nên được tặng cho danh hiệu  cáp duồn, chàng  còn một điểm
đặc biệt hơn người, là có lẽ trước ngày đi Mỹ, chàng luyến tiếc ráng hốt thêm
cú hụi chót, ai dè trúng mối tới vài triệu đem sang Mỹ, khiến cho chàng ĐKA sau
một đêm, đã phải khăn gói qủa mướp xin sang ở phòng khác; Còn về thằng bạn bạn
cùng phòng của tôi, tướng tá phốp pháp, cao lớn, điềm đạm hiền lành, hắn rất
ghét mấy anh chàng phá phách trong đại đội, nên hễ mở miệng ra là nói đùa “Ông
h… cho mày há nhăn răng ra bây giờ” nên chết với biệt danh “Dp homo”, ngay
tháng thứ nhì hắn vào PX vác về một con búp bê to tướng, cao gần bằng em bé 6,
7 tuổi dấu trong tủ! Dp thành thật và chí thú dành dụm. Một người như vậy mà
không ngờ về sau đi tù cải tạo, còn biết nuôi gà trống cho đạp mái lấy trứng ăn
công, nhờ vậy mà gia đình khỏi nặng gánh nuôi dưỡng, vừa có trứng ăn, vừa giúp
được một thằng bạn thân thêm dinh dưỡng, chỉ việc săn sóc và đổ thuốc B12 bổ
dưỡng cho gà khỏe mạnh, để đủ sức đạp … mái, lại còn dư để bán, sống qua ngày
trong chốn lao tù. Còn về sáu Ng, theo đương sự kể lại khi còn là học sinh, nhà
ở ngoài Huế, miền thùy dương bóng dừa xa xôi, hắn thuộc loại “chân chỉ hạt
bột”, kín vách cao rào, chứ không phải loại kín cổng cao tường, ngoài việc học,
không hề biết tí ti mùi đời, đến khi vào lính, trong thời gian học Anh ngữ ở
Sàigòn, những ngày cuồi tuần không về nhà được, đành làm con bà phước nằm lại
APL, vào một cuối tuần buồn, có tiếng ve gọi hè về, nhìn cánh hoa chuồn rơi
quay vòng vòng theo chiều gió, khiến chàng nghe theo lời đường mật rủ rê lên xe
Honda của thằng bạn, đi bát phố Bô-Đa ăn cà-rem, ai dè sau mới vỡ lẽ nó đưa lên
“Ngã 3 chú ấy”, chưa kịp hoàn hồn thì đã thấy hồn bay lơ lững dật dờ ở tận đâu
đâu, hắn vừa tức vừa tiếc hùi hụi, hắn tức thằng bạn hay tức ai, tiếc vì chỉ
một phút ngắn ngủi, mà mất của ngàn vàng để dành bao năm về tay …, hay tiếc vì
biết qúa chậm thì chỉ có trời biết! thì ra cái gì cũng có cái giá của nó. Còn
được về học anh văn cũng lại là chuyện không ngờ cho nó, vì không đủ điểm nên
không được về chung danh sách chính thức với anh em, buồn thúi ruột thì ngày
hôm sau lai được gọi về theo danh sách dự khuyết, thế mà chỉ sáu bẩy tháng sau,
ra trường đứng hạng nhì trong tổng số 64 sinh viên kể cũng có trí và thông minh
thiệt. Riêng cá nhân tôi, tụi nó tặng
cho tôi danh hiệu “già dịch”, “gìa gân” chả hiểu tại sao; Hường không cao nên
bạn bè gọi là Hường lùn, vì là ks/TĐP nên khi diễn hành phải đeo kiếm, thanh
kiếm thì lại qúa dài, nó cứ phải lấy tay đỡ thanh kiếm cho khỏi kéo lê trên mặt
đất, và mỗi sáng khi các khóa sinh chức sắc trình diện đơn vị, thì phải hô lớn
câu “All men present and ACCOUNTED for you, Sir !!!” (tạm dịch “Tất cả mọi người hiện diện đầy đủ, xin
trình diện thượng cấp”) đến lượt TV Hường mọi người chỉ nghe loáng
thoáng chữ cao-cao trong sương ban mai, thế là Cần buôi lại thì thào trong hàng
chọc hắn “làm sao cho tôi cao, sir!”.
Một kỷ niệm khác,
mà hầu như tất cả khóa sinh VN khó mà quên, là ngày đầu tuyết rơi, đó là lần đầu
tiên trong cuộc đời được thấy được sờ, nếm và ngịch ngợm chơi … với tuyết, vào
một buổi trưa, sau giờ ăn cơm, chúng tôi phần lớn đã về phòng chuẩn bị cho
những sinh hoạt buổi chiều, chợt nghe ngoài sân có nhiều tiếng ồn ào, Snow!
Snow! chúng tôi chạy ào ra ngoài coi, cả bầu trời ngả mầu xám đục, để lộ ra
những cánh tuyết trắng bay nhẹ nhàng, lất phất trong không gian, đủ để bám vào
những cọng tóc, bờ vai, rồi lại vội vàng tan nhanh, nhưng cũng vừa đủ làm cho
hình dáng, những cô nữ sinh viên Mỹ, mà chúng tôi gọi là “Oxi cái” trong bộ đồ
dạ đen, sơ-mi trắng, đang nhẩy múa hò reo, phía đằng xa bên kia sân thêm mờ ảo,
như những nàng tiên kiều diễm hiện ra trong giấc mơ. Tôi ngửa mặt lên trời há
miệng để đón những cánh tuyết đầu tiên, phủ lên mặt, hôn trên môi, những cánh
tuyết vừa chạm đến đầu lưỡi đã vội tan ngay, tuyết đã rơi, dù chỉ kéo dài dăm
ba phút rồi ngưng, cũng đủ để báo hiệu cho chúng tôi biết là mùa tuyết đã bắt
đầu. Chiều hôm đó tuyết đổ xuống khá nhiều, và suốt qua đêm, sau bữa cơm chiều
và cả buổi sáng hôm sau, may mắn thay lại nhằm ngày thứ bẩy, chúng tôi gọi nhau
ra ngoài sân đùa nghịch, các bạn trẻ bốc tuyết ném nhau, nhiều bạn xúm lại cùng
nhau đắp Snowman. Tôi vốc một nắm tuyết lên ăn thử, tuyết tan nhanh trôi xuống
mát lạnh cần cổ, lại chợt nhớ những buổi trưa hè ở Sàigòn, trên đường đi học về
ghé ngang tiệm chú ba đậu đỏ” trong con hẻm phía sau đường Phan Thanh Giản và
đường Bàn cờ, mua một ly đá nhận rưới mội ít sirô màu lên, ăn vừa ngọt vừa mát
rượi cần cổ, giờ chỉ thiếu có tí sirô là tuyệt vời, hẳn là ngon, bởi cánh tuyết
mịn và mỏng, nó sẽ làm khẩu vị tăng thêm rất nhiều.
Một lần vào dịp Giáng
Sinh, một số sinh viên Đại đội Uniform tụ nhau nhậu nhẹt trong phòng TT Hoài,
khóa 7, gây ồn ào náo nhiệt, khiến cho một sĩ quan Việt Nam Thiếu Úy Đ. bắt
nguyên cả đại đội Uniform, những ai còn ở lại ký túc xá, bất kể tham dự hay
không, nửa đêm ra ngoài sân đứng phơi tuyết, mà chỉ có mỗi bộ đồ ngủ trên mình,
làm cho cả lũ đứa nào cũng run lên cằm cặp, anh em lầm bầm trong miệng chửu thề
um sùm, rất may không có sinh viên nào bị bịnh. Rồi đến tết ta, nhà trường ưu
đãi cho SVVN nghỉ học 3 ngày, các cậu cũng tụ tập nhau nướng khô mực ăn nhậu ở
lầu hai, làm mùi hôi lan tỏa cả khu nhà cư xá, sinh viên Mỹ trực văn phòng Tiểu
đoàn, báo cáo là có mùi chuột chết, đến khi hỏi thì mới biết là TTP nướng mực
khô nhậu. Trái ngược hẳn với các bạn hay quậy, thì lại có những ông bụt thật
hiền lành như Quang mèo con, Hiệp móm và Hùng khờ, ba bạn này không bao giờ ồn
ào, và cũng chẳng làm ai phải phiền lòng.
Vấn đề học hành,
chúng tôi được huấn luyện đầy đủ từ lý thuyết đến thực hành, cách vận chuyển
tầu bè, đi đội hình, học tín hiệu dùng cờ quạt và đèn, hàng hải cận duyên với các
điểm cố định trên bờ, hàng hải viễn duyên dùng sextant (kính tọa độ thiên văn)
đo góc độ các vì sao với đường chân trời để định vị trí, chúng tôi còn được dạy
và thực tập phòng hỏa, cứu hỏa, thực tập phòng tai, vân vân, được thực tập bằng những dụng cụ tối tân hiện
đại nhất, mà các sinh viên sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ xử dụng. Thường trong lớp
học tôi hay ngồi cuối lớp, tránh xa các bạn trẻ ồn ào, đùa giỡn, tôi lại thích
hé tí cửa sổ cho mát, dù vào mùa Đông, Huấn luyện viên gọi tôi là “Iceman”. Để
chúng tôi hiểu thấu về cách tìm sao trên bầu trời, nhà trường cho chúng tôi đi
thăm một phòng thiên văn, khi vào bên trong căn phòng tối thui, chúng tôi nhìn
thấy cả một bầu trời đầy sao hiện ra trên đầu, được xem từng vì sao đã học. Lần
đầu tiên trong đời nhìn nguyên vẹn cả vũ trụ 360 độ, bao la ngay trong một căn
phòng nhỏ, cái ấn tượng của tôi là nước Mỹ văn minh qúa, tôi thắc mắc không
biết làm sao mà họ có thể thực hiện được như vậy, đến khi chấm dứt, đên bật
sáng thì tôi nhìn thấy ở giữa phòng một cái máy chiếu lớn, mầu trắng trông
giống như một người máy, ngoài chúng tôi có cả những người dân thường vào xem.
Tôi cũng không biết các bạn bè nhặt được tin tức ở đâu mà nói đó là một ngôi
trường tiểu học, khiến cho tôi mang cái ấn tượng này về VN cho đến nhiều năm
sau, rằng ở Mỹ học sinh tiểu học đã được dạy với các dụng cụ tối tân như vậy,
trong khi ở VN, kể cả trường Đại Học cũng không có. Các huấn luyện viên dạy
chúng tôi học và thực tập, trong thời gian thụ huấn tại trường, được biết đến
nhiều là Chief (Thượng sĩ ) John, Yasuka, Burkey, Tr.Úy Walter, Đ/Úy Black dạy
về hàng hải, Đ/Úy Noble dạy chiến thuật hải quân.
Ngoài vấn đề học
về kiến thức hàng hải, sinh viên chúng tôi còn được luyện tập và tranh đua các
bộ môn thể thao như, bơi lội, bóng rổ, bóng chuyền, kéo dây, chạy đường trường
hàng tuần, nói về chạy đường trường trong đại đội Uniform có VĐ Tài là số một,
Tài nhỏ con như tôi, nhưng sức dẻo dai thì vô địch, và lúc nào cũng đem giải
nhất về cho Đại đội trong bộ môn này, cho dù hai đại đội kia có những sinh viên
to, cao lớn hơn nhiều. Riêng về môn bơi lội, nếu có ai, nhất là những cô em gái
đã chót “Với lòng nàng anh là thủy thủ” nghĩ thủy thủ, nhất là Sĩ quan hải quân
chắc là phải bơi chì lắm, xin hãy đọc vài câu chuyện khá vui dưới đây, trước
khi gỉa vờ trượt chân té xuống hồ, để có thể được nằm gọn trong vòng tay yêu
thương của chàng, thì lầm to, không chừng lại nằm trong bàn tay Diêm Vương,
trước khi mộng đẹp vỡ tan như bọt sóng đại dương, mà chẳng thấy chàng đâu. Một
trong người bạn đó là TVH, nghe nói hồi đi học từng là tay bơi có hạng ở hồ tắm
Chi Lăng, Gia Định, nên được xếp vào toán bơi tiếp sức, mỗi toán viên bơi một
vòng vừa đi vừa về. Ai dè đâu tới giữa hồ thì thấy TVH lặn xuống đáy, ngày hôm
sau nghe đương sự kể lại “đang ngon trớn
bỗng dưng trời đất tối sầm lại như đêm ba mươi, rồi thì lực bất tòng tâm, tay
chân bải hoải, thần trí mơ hồ, chỉ còn thấy lờ mờ một cây sào dài đưa ra, vội
vàng nắm lấy…”. Còn một bạn khác, A. kèn trong buổi tập nhẩy từ trên cầu
cao (khoảng chừng 5 mét), sợ qúa ngồi ôm cứng ngắc chân huấn luyện viên, tội
nghiệp ông ta gỡ mãi mà không được, trong khi phía dưới anh em hò la kêu nhẩy
um sùm, nhưng chàng nhất định không buông, cuối cùng thì phải có thêm một sinh
viên lên phụ gỡ ra, rồi xô chàng xuống nước, lúc trồi lên chàng bơi vào bờ tự
nhiên, có sao đâu, lên cầu cao chàng qúa run nên khớp, và Q. mèo con, bạn cùng
phòng của An, trong khi chờ đợi tới phiên, gỉa vờ giả vịt lại chuyện trò với
các bạn đã làm xong bổn phận ở đầu hồ đằng kia, rồi thừa lúc sĩ quan quay đi,
lội xuống ngâm cho ướt mình, rồi len lén chuồn vào phòng tắm mất dạng, đúng là
một cặp bài trùng có khác. Riêng Thành, ĐĐ Victor ngon lành hơn, cũng leo lên
nhắm mắt, bịt mũi nhẩy đàng hoàng như một tay nhẩy từng chải, nhưng chờ mãi
không thấy nó chồi lên, đến khi bọt nước tan đi và mặt hồ yên lặng thì thấy nó
còn đang ngồi thiền dưới đáy hồ, anh em hoảng qúa vội nhẩy xuống xách nách đưa
lên và làm hô hấp cho tỉnh lại. Còn anh chàng NVNg đang ngồi lê lết bên thành
cầu, thấy cao qúa sợ không dám đứng lên, bị thằng nào đứng sau thình lình xô
đánh tỏm xuống nước, uống một bụng, nhưng cố lóp ngóp bám được thành hồ, bạn bè
kéo lên, than phiền “nước hồ có nhiều Ja-ven qúa”. Nói về thể thao, đại đội
Uniform từ khóa 5 cho đến khóa 8 vẫn luôn giành cờ chiến thắng, Tango thì về
học vấn, còn Victor thì quân sự, cộng thêm đứng đầu về vệ sinh. Khu trú ngụ của
Đại đội Uniform bị thiệt thòi nhiều nhất, vì nằm ở giữa và dẫn thẳng tới nhà ăn
Ney Hall, nên hành lang của Uniform thường hay bị các bạn đại đội Victor dùng
chùa nhiều nhất, vì các chàng sợ dơ hành lang của mình, ngược lại thì chúng tôi
phải làm vệ sinh nhiều hơn, vì nhiều khi vừa lau xong, mấy bố lại tha tuyết
bước vào ướt nhẹp. Từ đó về sau mỗi khi đi ăn sáng về, là anh em Uniform chạy
ra canh hành lang, không cho mấy khứa Victor dùng chùa, tên nào lén lọt được
qua, thế nào cũng bị vài bạn chạy ra la mắng om xòm.
Tuy nhiên để có
được sức khỏe thì vấn đề dinh dưỡng cũng không thể bỏ qua, mà dinh dưỡng ở quân
trường Mỹ thì có lẽ trên thế giới không đâu sánh bằng, nhất là chúng tôi vừa từ
ở một xứ nghèo nàn, chậm tiến, ăn cơm nhà bàn, canh nấu với sâu, ruồi, và cá
mối làm chuẩn, bây giờ được vào Ney Hall ăn thì khỏi phải nói, qủa là thiên
đường hạ giới vậy, quân trường Mỹ cho ăn ngon hơn cả bên ngoài dân sự nữa, vì ở
ngoài phải mua mất tiền, nhiều khi đắt qúa người ta không dám ăn, trong này ăn
khỏi tốn tiền, mà toàn những món ngon, vặt lạ, nào tôm hùm, bít-tếch, nào sườn
nướng, gan hấp, vân vân, miếng nào miếng nấy to gần bằng cả cái đĩa lớn, mỗi
ngày là một món ăn khác nhau, đồ ăn tráng miệng thì có nho, cam, táo, tha hồ mà
ăn, khỏi cần phải nói nhiều cứ nhìn những sinh viên tu nghiệp từ Mỹ về thì cũng
biết, mỗi người lên ít nhất từ 5 tới 10 kg trong vòng có hơn 6 tháng. Nhiều khi
nói ra thì cũng thấy hơi kỳ, nhưng phải thú thật những người làm ở nhà ăn Ney
Hall, chắc họ ngạc nhiên lắm, sao sinh viên Việt Nam trông thì nhỏ con, mà cái
bụng to thế, to hơn cả bụng sinh viên Mỹ nữa, người Mỹ đôi khi họ còn kiêng cữ,
chứ Việt Nam thì khỏi, nếu không nhiều gấp rưỡi, gấp hai, thì chắc chắn không
thua, cứ nhìn cái khay đồ ăn là biết, mà tội gì phải kiêng cữ kia chứ, mai mốt
về nước sẽ phải ăn kham kinh niên lo gì, cả đời chắc gì đã có lần thứ hai, nên
cứ việc ăn thả giàn để trừ hao về sau. Đến giờ ăn từng Đại đội phải đứng xếp
hàng chờ ở trước cửa, và đợi khi nào có bàn trống, sinh viên trực nhà ăn, ra
hiệu cho vào mới được vào. Trong những ngày đầu mới tới, có anh còn thò tay bứt
cả chùm nho giả nữa, khiến người đứng quanh không thể nín cười được. Đối với
người Mỹ ăn nhiều ăn ít không thành vấn đề, vì thức ăn xứ Mỹ ê hề qúa mà, nhưng
đừng lấy nhiều rồi mang đổ đi là được. Gần sáu tháng sống ở trường OCS, những
ngày vui sướng nhất là ngày cuối tuần, sau khi thanh tra quân phục đi bờ xong
là từng nhóm, tung cánh chim bay về muôn hướng, nhiều anh em đi tới tận Boston,
New York, tôi và Diệp thường chỉ lẩn quẩn ở New Port hay Warwick, vòng vòng đi
ăn cơm tầu, mà cũng chẳng biết gọi món gì hơn là cơm chiên, chỉ có một lần đi
Providence và Boston, mỗi lần đi ra phố, thấy phố xá, công viên chỗ nào cũng
sạch, cũng đẹp, hai bên lề đường không lát gạch thì cũng tráng xi-măng, chứ
không có chỗ nào là đất cả. Hầu như công viên nào cũng có tượng, tượng nghệ
thuật, tượng lịch sử đủ cả, phần lớn các chàng, kể cả tôi chỉ thích đứng cạnh
tượng các thiếu nữ khỏa thân để chụp, còn cu Cần và An thì hay ôm mấy bảng chỉ
dẫn đường mà chụp, đi chơi chán thì lại tìm đến K-mart mua xà bông, thuốc lá:
Salem, Pall Mall, Lucky, xà bông thì Camay và Dove là được ưa chuộng nhất, vì
trong PX nhà trường không cung ứng đủ cho nhu cầu các sinh viên Việt Nam mang
về nước, sau này họ đã phải giới hạn không được mua qúa số lượng ấn định mỗi
lần. Một loại hàng nữa cũng rất được các sinh viên VN ưa chuộng đó là món hàng Bikini
7-mầu, trước đây PX chỉ bán được đồ này cho OC cái, không ngờ nam SVVN còn mua
nhiều hơn! Nếu có nhân viên nào trong PX hay OC Mỹ cái đặt câu hỏi trong đầu
“không lẽ SVVN PD nhiều đến thế sao?” hay “Đàn ông VN là những người tình tuyệt
vời! mua cả đồ lót tặng người yêu” thì cũng là lẽ thường, bởi đàn ông Mỹ dù rất
ga-lăng, nhưng cũng ít ai mua đồ lót tặng người yêu cả. Hì! Hì!!
Kể từ sau biến cố
tết Mậu Thân năm 1968, trên toàn nước Mỹ
khuynh hướng phản chiến lan tràn khắp mọi nơi, và càng ngày càng được sự ủng hộ
của quần chúng Mỹ. Những lần chúng tôi đi chơi ở Providence, Boston hay những
thành phố lớn, bất cứ nơi công viên nào cũng đều thấy có những người đứng ra hô
hào phản chiến, họ tụ tập từng đám nhỏ tại các công viên để tuyên truyền chống
chiến tranh, nhất là thành phần Hippy, vì thế mỗi lần đi phố gặp những đám
người phản chiến, là chúng tôi phải lảng nhanh ra nơi khác ngay.
Mùa Christmast
1970, nhà trường đóng cửa hai tuần lễ, nên khóa học các đợt 6, 7, 8 &
9 cũng được kéo dài thêm, trong hai tuần
lễ này nhiều sinh viên Việt Nam rủ nhau đi chơi xa tới tận New York, Washington
DC, và cả Canada nữa, tôi cũng phục tài xông xáo và gan lì của các anh chàng
trẻ tuổi này, thật ra thì tiếng Anh cũng chưa đến độ nhuyễn lắm, mặt đối mặt
thì cũng tạm OK, chứ còn nghe điện thoại thì cứ What! What! Repeat please! lia
lịa, vậy mà có chàng cũng mò đến cả khu Harlem, vào ngủ ở phòng trọ YMCA rẻ
tiền. Trong số ở lại trường trong những ngày nghỉ dài có tôi, vì không quen
biết ai ở bên ngoài, và cũng chẳng có bạn thân để đi cùng, những ngày nghỉ
thỉnh thoảng leo xe buýt, cùng hai ba bạn đồng cảnh ra ngoài New Port ăn cơm
tầu, hay lang thang dạo phố tối lại mò về, phần khác cũng không có dư tiền.
Lương tháng lãnh 30 đô la đủ tiêu vặt, và dành dụm chút đỉnh mua qùa cáp khi
trở về, gọi là có tí qùa xuất ngoại, chia xẻ cùng bạn bè hay bà con họ hàng.
Trong những ngày Christmast, Ney Hall đóng cửa, chúng tôi phải lội bộ tới nhà
ăn của một đơn vị khác để ăn ké, cách nơi trú ngụ cũng đến gần nửa dặm. Mùa
đông Newport, thời tiết lạnh vô cùng và tuyết rơi rất nhiều, có ngày tuyết rơi
ngập cả thước, mặt trời lặn cũng rất sớm, mới khoảng 4 giờ đã tối mịt tối mò
rồi, tối đen như mực, nên mỗi lần đi ăn chiều, tôi phải tìm hai ba người cùng
đi cho đỡ buồn, vì ngoài đường không có lấy một bóng người, một mình mò mẫm
trong đêm tăm tối trên vùng tuyết trắng mênh mông, vừa cảm thấy cô đơn, lại vừa
sợ, vì hầu hết nhân viên trong căn cứ đều nghỉ cả, kể cả khóa sinh Mỹ cũng được
cho về nhà, số nhân viên ở lại làm việc hay trực gác rất ít, và họ di chuyển
bằng xe, chứ không có ai đi bộ như tôi, bây giờ tôi mới thấy thấm thía “Nỗi
buồn con bà phước”, và cũng ước phải chi được như bạn NVNg lúc này, kể cũng nhẹ
phần nào “Mối thù dân tộc” nhỉ!!
Sau Giáng sinh lại
đến tết ta, đây là cái tết thứ hai trong đời quân ngũ, nhưng lần này thì đón
tết ở ngoại quốc, có phái đoàn của tướng Kỳ qua thăm viếng, nhưng chỉ nghe nói
ông ta đến bộ chỉ huy nhà trường vào buổi trưa, rồi biến mất, chẳng hề gặp mặt
hay thăm hỏi sinh viên Sĩ Quan Hải Quân VN đang học tập. Đêm văn nghệ tất niên,
khóa 6 OCS đương kim SV dìu dắt trách nhiệm đứng ra tổ chức, có sự hiện diện
của ba ca sĩ Khánh Ly, Ngọc Minh và Ngọc Anh, đêm văn nghệ cây nhà lá vườn của
các khóa sinh trình diễn, tuy không phải là chuyên nghiệp, nhưng cũng vui. Có
những màn đơn ca, hợp ca và kịch. Màn hợp ca do ks/NM Ánh tập dợt được các OC
cái Mỹ tán thưởng. Màn kịch Trấn thủ lưu đồn, có ks/TT Hoài gỉa gái khá giống,
Lân mù, Cần sún và Nghĩa lùn trong vai lính thú đời xưa, và có thêm sự hiện
diện của hai cô nữ sinh VN du học trong vai các cô gái Việt, không biết do anh
chàng nào dụ vào, xướng ngôn là ks/Thọ. Trước đây khi khóa 3 mãn khóa, cũng có
trình diễn võ thuật do ks của các khóa 3, 4, 5 và 6 gồm những màn trình diễn võ
thuật Taekwondo do ks ĐV Ất dẫn dắt đã gây được ấn tượng trong giới sinh viên
Mỹ, thay vì có thêm màn Vovinam do ks/TH Phương, Trào và Thanh (Dundee), nhưng
vào giờ chót, do trục trặc kỹ thuật nghề nghiệp, Phương bị té trẹo tay, nên hủy
bỏ. Từ sau hôm ấy, hễ gặp chúng tôi là sv Mỹ lại hỏi “Bộ mấy anh, ai cũng biết
võ thuật hả?” thế là chúng tôi được dịp tán phét và thổi phồng “Ừ, ở nước tao
học sinh trung học là bắt buộc phải tập võ thuật rồi, và ít nhất phải tập đến
đai nâu trở lên!” xem chừng cũng có nhiều sinh viên Mỹ nhìn chúng tôi phục lăn
long lóc, và tỏ vẻ khâm phục lắm, nhưng có biết đâu ra ngoài phố gặp mấy tụi
hippy, thì các chàng SVVN cũng tìm cách lủi cho nhanh, đánh bài chuồn là thượng
sách.
Trong suốt thời
gian học tập tại đây, một trong những công việc đầu tiên hàng ngày, mà chúng
tôi phải làm là vấn đề vệ sinh phòng ốc và quân phục, công việc nghe thì đơn
giản, nhưng lại rất dễ bị điểm xấu, quân trang, quân phục, phòng ốc phải thật
sạch sẽ và chỉnh tề. Thanh tra quân phục được thực hiện mỗi buổi sáng trước khi
đi học, còn thanh tra phòng ngủ thường trong lúc chúng tôi vắng nhà. Bởi thế
buổi sáng chúng tôi phải ăn cho nhanh để còn về làm vệ sinh, hai người thay
phiên nhau, mỗi người làm trưởng phòng một tuần. Việc làm vệ sinh cũng cần phải
thực hành cho có thứ tự, thì mới tránh khỏi phải làm đi làm lại, đôi giầy được
đánh bóng trước nhất, xong xuôi để ở một góc cửa, rồi tới quần áo, mũ, muốn làm
sạch những sợi tơ trời bám vương vãi trên quần áo, nhất là đồ nỉ mùa đông, thì
phải dùng băng keo để chấm mới sạch được, dĩ nhiên băng keo thì phải bỏ tiền
túi ra mua, chứ không được cấp phát. Xong rồi thì quần áo treo vào tủ, và chỉ
mặc sau khi mọi thứ đã làm xong, kế đến lau chùi bàn ghế, tường, giường ngủ,
đèn, tủ, tất cả phải thật sạch, không có một vết bụi, cuối cùng lau đến sàn
nhà. Để cho được hoàn toàn sạch, chúng tôi phải dùng khăn trắng tinh để lau,
chừng nào không còn bụi bẩn dính vào khăn mới thôi, vì người đi thanh tra sẽ
dùng tay không, hoặc cắc cớ hơn mang găng tay trắng để quyẹt bất cứ chỗ nào, mà
họ nghi ngờ là không được lau chùi kỹ lưỡng, kể cả dưới gầm giường. Tấm khăn
phủ giường và chăn phải gấp nếp phía trên đầu và kéo cho thật căng, làm sao khi
thẩy đồng xu lên nó phải nhẩy tưng tưng, như người mắc chứng kinh phong thì mới
an tâm, phần dư chung quanh phải nhét gọn gàng dưới nệm, gối cũng phải để cho
ngay ngắn. Sau khi mọi thứ đã được lau chùi sạch sẽ, sách vở đi học để gọn gàng
ngay đầu bàn để dễ với lấy, mới bắt đầu mặc quần áo, và sau khi xỏ đôi giầy
rồi, chúng tôi tự cấm nhau không được ra vào cho đến khi đi học về. Gần tới giờ
chúng tôi xếp thành một hàng ngang trước cửa phòng, ở một bên của hành lang để
chờ thanh tra quân phục, việc thanh tra thường do các sĩ quan Mỹ cán bộ đại
đội, hay cũng có thể ủy thác cho các khóa sinh đại đội trưởng, trung đội trưởng
thi hành, mỗi khi sĩ quan bận hay vắng mặt. Nói về hình phạt thì Kính U6 là
người bị đầu tiên cho khóa 6, chỉ vì tội trong tuần lễ “đầu lam quen”, (in
processing) mà mặc đồ ngủ chạy ra ngoài cửa bỏ thơ, bị Tr/Úy Mỹ ĐĐP Victor bắt
gặp, thẩy ngay cho một cái 7-bravo (mẫu phạt), thế là cuối tuần chàng phải vác
súng garant đi cơ bản thao diễn, còn bạn LS Thắng nhà ta, mà bạn bè gọi là
Thắng đầu bò, vì không những đầu to lại to con, tốt tướng, không thằng nào có
thể giả vờ lấy lộn mũ của nó được, dân Sàigòn nhưng trông không giống người
Sàigòn, lại nóng tính, thấy chướng tai gai mắt là gân cổ lên cãi, một sáng đẹp
trời làm vệ sinh gì đó, không may gặp ngay thần lửa NTH (khóa 5), còn cao hơn,
cũng là một thứ Trương Phi xửng cồ, chỉ khác ở nước da, hai anh tê giác đụng
nhau, khỏi cần phải nói cũng đoán được, thằng em U6 bị thằng anh U5 quăng ngay
cho một cái phiếu ăn free “Bò bẩy món Ánh Hồng” (7-Bravo), đưa lên ông Ba Mươi,
ông Cọp thấy bò tươi đâm mê qúa! Buy one get one free, mua một tặng một, cuối
tuần thằng em tha hồ vác garant “Nai xào bơ” mệt nghỉ.
Một điều cũng vui
vui là khi chúng tôi được nhà trường, đưa đi thăm Thiết Giáp Hạm, ở Boston, và chiến
thuyền xưa Constellation (Tall ship) ở Baltimore, vợ của các sĩ quan Mỹ được
các SVVN trổ tài “ga-lăng”, chiếu cố hết mình thay phiên nhau mượn để chụp hình
ké, mà chỉ chụp với các bà chứ không chụp với các ông, một bà trẻ đẹp, cao có
đôi chân thon dài ở mãi tận đầu kia của con tầu, có rất đông các sinh viên mít
ta xếp hàng chờ đợi mượn, gần chỗ tôi đứng có một bà, mà tôi không nhớ vợ của
Sĩ quan nào, bà khá mập, nên rất ít được các chàng chiếu cố, chợt nghe văng
vẳng bên tai tiếng hát Duy Quang “Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá … có còn
hơn không! có còn hơn không!” tôi bèn bước lại nhoẻn miệng cười cầu tài, xin
chụp với ông bà một tấm, và với riêng bà một tấm, kẻo mai này mốt nọ về nước
nếu có ai hỏi, thì còn có mà đưa ra, chứ không thì quê một cục. Lần khác chúng
tôi được nhà trường đưa đi New York ba ngày, trú ngụ ở khách sạn Commodor, tôi
ở tầng thứ mười chin, buổi sáng từ trong phòng nhìn ra ngoài, trời sương mù dầy
đặc, bay là đà phía dưới, chọc ra khỏi tầng mây mù là những tòa nhà chọc trời
vươn cao giữa làn sương mờ ảo, cảnh tượng thật là đẹp, tôi tưởng mình đã thành
Tề Thiên Đại Thánh đang đi trên mây, chúng tôi cũng được hướng đi thăm tòa nhà
Liên Hiệp Quốc, và vài công viên nổi tiếng, rất may mấy hôm đó trời không có
tuyết, nên đường xá sạch sẽ, khô ráo. Tuy thời tiết khá lạnh, nhưng được cái có
nắng nên cũng dễ chịu, Nữu Ước là thành phố du lịch quốc tế, lúc nào cũng tấp
nập du khách trên đường phố, có nhiều người thấy chúng tôi ăn mặc đồng phục
đen, nón trắng có mỏ neo, nên họ rất tò mò, nhìn chúng tôi lạ lùng lắm, nhờ thế
mà việc mượn đào chùa để chụp hình cũng không mấy khó khăn, thôi thì các chàng
tha hồ mà chụp, đầy nghẹt nguyên cả khúc đường trước tòa nhà Liên Hiệp Quốc,
mọi góc, mọi nơi, mọi cảnh trí đều được thu vào ống kính lia lịa, có một bà xồn
xồn rề lại hỏi tôi “Các anh là ai, và đồ các anh mặc là đồng phục gì vậy?” Tôi
trả lời “Chúng tôi là sinh viên Sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, sang đây du
học”, trong bụng yên chí khi nhắc đến tên VN, thì hầu như mọi người trên thế
giới đều nghe đến, không phải vì những thành tích văn học hay nghệ thuật, cũng
không phải vì những tài danh lừng lẫy bốn phương, nhưng nổi tiếng vì số bom đạn
chế tạo từ Mỹ, Nga và Tầu đỏ đã sử dụng trên quê hương VN, nếu chia đều thì mỗi
người dân Việt chúng tôi, ít nhất cũng được vài ký kẹo đồng, và mỗi thước đất
cũng có vài cân bom, tưởng thế là đã thỏa mãn được tính tò mò của bà ta, ai ngờ
lại càng làm bà ta ngạc nhiên hơn, ba ta xoe tròn đôi mắt “Việt Nam, where is
it?”, để trả lời câu hỏi bà ta, tôi đã nhanh trí bảo nếu bà đi ngang mấy công
viên, mà gặp người biểu tình phản chiến thì hỏi họ, bây giờ thì hình như bà ta
mập mờ vỡ lẽ, nhưng bà nhìn tôi hỏi tiếp “Anh bao nhiêu tuổi?”, tôi thành thật
trả lời “Tôi 24 tuổi”, bà ta dương tròn đôi mắt xửng sốt “Thật hả, tôi tưởng
anh chừng 17”, nói rồi bà ta quay qua quay lại quan sát những sinh viên gần
đấy, bà lắc đầu quầy quậy quay đi, tôi nghĩ chắc có lẽ trong bụng bà ta đang
nghĩ “Không thể tin được, chắc mấy đứa này nó nói sạo”!!!
Ngoài ra có ba biến
cố đáng kể của khóa 6, một là vào dịp Giáng Sinh và tết tây, lợi dụng kỳ nghỉ
dài, một sinh viên tên K đã bỏ trốn qua Canada, và sau đó nghe tin anh ta trốn
qua Pháp, chẳng biết bây giờ anh bạn đó có nhớ lại kỷ niệm những ngày xưa ở OCS
không! Hay có giây phút nào nghĩ về những người bạn trẻ một thời, cùng mang con
cá vàng trên vai áo màu tím đại dương! Trong khi đó Quang baby, người trẻ tuổi
nhất khóa, đầu quân vào lính khi vừa tròn 18 tuổi, có thân nhân đang ở tại Mỹ,
bạn bè của hắn luôn nghĩ là hắn sẽ tìm cách trốn ở lại, thì hắn lại không trốn,
hết hai tuần Giáng sinh bạn bè vẫn thấy hắn lù lù trở về trường, không hiểu
Quang vì tình yêu quê hương, hay yêu đào, thà trở về tác chiến, chứ không làm
kẻ đào ngũ, nhưng tôi chắc hắn chưa biết cái lông hồng nó nhẹ bao nhiêu! Còn
anh chàng nữa tên H cũng đã đi Canada, nhưng sau đó lại bò về, chắc nhớ bồ ở
Sàigòn, sợ em ở nhà theo thằng khác chăng, hay tại hồi bé cũng ăn thịt thỏ đồng
như tôi! Hai sự kiện khác là một sinh viên (ĐĐ Victor) đã được cho về sớm hơn
hạn định vì lý do kỷ luật, chỉ vì đã có hành động lỡ lầm ở ngoài phố, không
biết có phải vô tình quên và vì khả năng Anh ngữ không đủ để giải thích cho
người ta hiểu sự nhầm lẫn của mình, nên lâm vào cảnh “tinh ngay lý gian” chăng?
Bạn khác muốn ôn bài trong lúc nhàn rỗi, đã viết vào tay của mình những điều
cần nhớ, nhưng lại quên không rửa tay, khiến cho Huấn luyện viên nhìn thấy, cả
hai anh bạn đã bị đưa về sớm hơn dự liệu. Đời sống tập thể qủa là phức tạp, người
thế này, kẻ thế khác, cộng đồng nào thì cũng vậy, bàn tay còn có ngón dài ngón
ngắn kia mà, thôi thì đành chấp nhận vậy.
Sáu tháng học tập
rồi cũng qua thật nhanh, cuối cùng thì chúng tôi mãn khóa vào ngày 26-1-1971,
thay vì theo chương trình còn một cuộc đi du lịch, hình như tới thủ đô Hoa
Thịnh Đốn trước khi rời trường OCS, nhưng theo đồn đại của các sinh viên khóa
tôi và các khoá sau, thì do một hai khóa sinh khóa 6, đã xử dụng điện thoại
viễn liên quá mức tưởng tượng, làm ngân sách hao hụt, thế là chương trình du
lịch cuối cùng của chúng tôi bị hủy bỏ, và nghe nói các khóa sau cũng bi ảnh
hưởng lây. Sau ngày mãn khoá, chúng tôi rời OCS, lại hành trang lên xe buýt,
nhưng khác với lần mới đặt chân tới, nhiều háo hức lẫn tò mò, lần này ra về với
ít nhiều lưu luyến lẫn bâng khuâng, hành trang nặng nề hơn, một phần vì chúng
tôi ai cũng lên cân, trông đẹp trai hẳn ra, đôi má phúng phính và hồng hào, chứ
không hom hem, đen thui như ngày đầu, hành lý thì ngoài quần áo, còn thêm cả
qùa cáp, và hơn tất cả, ngồi trên xe nhìn tòa nhà ký túc xá Nimitz tôi không
khỏi bùi ngùi, từ nay không còn phải làm phòng, không phải thanh tra quân phục
mỗi buổi sáng, nghĩ lại chỉ thấy vui vui, chứ không thấy cực nhọc, nhớ nhà ăn
NeyHall, nhớ cái mùi béo ngậy và thơm phức vào mỗi bữa ăn, tôi thầm cám ơn
những nhân viên nhà bàn, đã tận tình làm việc để cho chúng tôi những bữa ăn
ngon miệng, sau đó dọn dẹp mà không có một đồng xu “Tip” để lại, ngược lại mỗi
lần khi thấy chúng tôi bước vào, họ luôn nở nụ cười vui vẻ. Nhớ King Hall, bên
kia bờ sân cờ rộng mêng mông, có lá cờ Mỹ to tướng phất phới bay, quất phần
phật trong gió dưới nắng ban mai, nhớ lớp học, nhớ mấy người huấn luyện viên,
nhớ ông “Ba mươi” tốt bụng. Ngoài sân vẫn đầy tuyết phủ, nhưng sao nhớ qúa
những cánh tuyết rơi đầu mùa, nhớ những cánh rừng vàng đỏ mùa Thu bên kia bờ
vịnh, bây giờ tôi thấy thèm một ngọn gió lồng lộng thổi từ vịnh vào. Đoàn xe từ
từ chuyển bánh, chúng tôi dơ tay vẫy chào lần cuối “Tạm biệt OCS!”, “Giã từ
OCS!” có tiếng nhôn nhao “vĩnh biệt” chứ sao lại “giã từ”, về nước làm gì còn
có ngày trở lại, ừ thì “Vĩnh biệt OCS!”, “Vĩnh biệt các OC cái” đoàn xe tiến ra
khỏi cổng, bên tai tôi còn nghe văng vẳng tiếng “May I request your permission
to pass your party, Sir!” !” (tạm dịch “Tôi xin được phép đi ngang hàng quân
của ông!) nhỏ dần, nhỏ dần, ngôi trường cũng khuất dần, rồi mất hẳn sau những
khúc quanh, khuất sau những hàng cây, lúc này ngồi trên xe, thoang thoảng làn
gió biển lùa vào, thoáng như mùi gió của giòng sông Sài gòn hôm nào ra đi, ngày
về đã gần kề, thời gian sẽ qua nhanh, có ai đoán được cuộc đời chúng tôi sẽ
trôi theo những khúc quanh trên các giòng sông định mệnh nào.
Bay sang Mare
Island, Vallejo vùng vịnh Cựu Kim Sơn, để được tiếp tục huấn luyện hai tuần lễ,
về chiến tranh sông ngòi, và thực tập xử dụng các loại giang đĩnh, di hành trên
sông rạch, phải nói vùng sông ngòi này giống y hệt như những sông rạch miền đồng
bằng sông Cửu Long, cũng có những vùng sình lầy lau sậy cao ngập đầu, cũng
những giòng sông uốn khúc quanh co, khiến cho tôi chạnh lòng nhớ quê hương, mà
cũng không lâu, chỉ hai ba tuần nữa chúng tôi sẽ trở về. Điểm đặc biệt hơn hết
là sương mù về đêm và sáng, trong chương trình chúng tôi sẽ có những cuộc thực
tập hành quân và đột kích đêm, sau khi ăn bữa cơm chiều dã chiến, chúng tôi
được chia nhiệm vụ từng toán xuống chiến đĩnh các loại, alpha, tango, monitor,
PBR, tất cả tầu bè đã chuẩn bị sẵn sàng, máy tầu nổ dòn tan, theo nhau bắt đầu
tách bến, thì sương mù đổ ập xuống, nhanh đến độ, tàu chưa ra được đến giữa
giòng đã không còn nhìn thấy chiếc nào, mặc dầu vẫn nghe tiếng máy nổ chung
quanh, nghe cả tiếng máy truyền tin gọi nhau ơi ới, ngay cả trên cùng một tầu
mà đứng cách nhau vài mét là không thấy nhau rồi, đêm đó cuộc thực tập phải hủy
bỏ, để chờ hôm sau. Cuối tuần chúng tôi rủ nhau ra thành phố Cựu Kim Sơn chơi,
đến phố tầu ăn mì, thành phố tráng lệ, huy hoàng và to lớn qúa, với nhiều nhà
chọc trời, những con đường leo lên, đổ xuống cao và sâu hun hút, chúng tôi từng
toán năm ba người, lục lạo khắp thành phố, khi thì đi xe buýt, lúc thì leo xe
điện, China town, cầu Golden Gate Bridge, sở thú, là những nơi được ưa thích
nhất. Vào sở thú, lần đầu tiên nhìn thấy chú nhái lửa độc nhỏ síu, mà hình như
trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung đã cho Lệnh Hồ Xung ăn, và nhờ vậy mà LHX đã
có một loại độc dược cực độc trong cơ thể, để chống lại những chất độc dược
khác. Bắt chước những du khách, chúng tôi khắc tên mình trên những lá xương
rồng to tướng và những gốc cây ở đây, để ghi dấu mình đã đặt chân tới đây, biết
đâu sau này lại chả có một du khách VN đặt chân đến đây, đọc được những tên
này, chắc họ sẽ cảm thấy ấm lòng và yên tâm hơn, buổi tối hôm đó chúng tôi cũng
không quên ghé tới con đường Broadway, mò mẫm vào trong mấy hộp đêm khỏa thân
để coi cho biết, kẻo sau này về nước sẽ hối tiếc, vì không được thưởng thức,
những cái độc đáo của xứ cờ hoa, mà trước đây chỉ được nghe các chàng phi công
đi Mỹ về kể chuyện, nghe mà thèm thuồng, còn đi xa hơn khỏa thân thì tôi thật
tình không biết, lạng quạng gặp bọn “lại-cái” thì chết, ai cũng nhớ kỳ đi Nữu
Ước năm ngoái, có một sinh viên khóa 5 bị thất lạc, ngày tụ tập trở về trường
không thấy chàng trình diện. Hôm sau anh ta mới lò mò trở về trường, với thân
hình tiều tụy, quần áo tả tơi, anh em đồn rằng nó bị bọn “pê đê” bắt cóc, tội
nghiệp sinh viên đó cũng bị đưa về nước trước hạn định, mà không ai biết nguyên
do vì sao. Hôm khác tôi lang thang ra ngoài thành phố Vallejo chơi, thành phố
nhỏ, có những con đường lên đồi, đổ dốc sâu thẳm như ở SF, cây cối xanh tươi,
nhà cửa nhỏ và gần gũi nhau hơn, vẻ êm đềm và tĩnh mịch khiến cho tôi chạnh nhớ
về Đà lạt, nó có một cái vẻ ấm cúng, và thân thiết, và không biết tại sao tôi lại
yêu thích cái tên Vallejo vô cùng, hình như tôi đã để lại một phần con tim, cho
một người con gái không tên nào đó, ngay cả đến bây giờ cũng vậy, mặc dầu tôi
chẳng có một kỷ niệm gì với nó, tôi chỉ là một con thuyền dừng bến trên một
giòng sông lạ một lần rồi đi.
Ngày 12/2/1971 chấm
dứt khóa học hai tuần về chiến tranh sông ngòi, chúng tôi lên đường trở về Việt
Nam, tưởng cũng cần nhắc là dịch chim cút ở Việt nam vẫn đang nóng bỏng, một
người bạn thân gởi thơ qua nhờ tôi mua dùm một hai cặp, tôi phần vì sợ bị rắc
rối, phần cũng chẳng biết ở đâu mà mò, vậy mà khóa tôi hai sinh viên NTĐ và NVC
cũng mua được chim cút dấu mang về, phục thiệt, lúc ngồi trên phi cơ, chim kêu
chíp chip, cô nữ chiêu đãi viên đi tới nơi phát ra âm thanh, nhưng hai chàng
SVSQ/HQ đã nhanh nhẹn và tài tình hơn, đá vào cái thùng cho nó im lặng, rồi giả
vờ huýt gió tiếng chim kêu, vậy mà đã đánh lừa được cô chiêu đãi viên mới tài.
Cần “buôi” thì dấu được một khẩu súng nhỏ .22 ly mang về. Khi về đến phi trường
Tân Sơn Nhất, nhân viên quan thuế thấy nguyên băng toàn SVSQ chẳng bị hạch hỏi
gì cả, chỉ khám xét qua loa rồi thôi, nên tất cả đều qua chót lọt, Sau khi ra
khỏi cửa thì đã quá trưa, lại nhằm ngày thứ 6, anh em bàn cùng nhau hẹn sáng
thứ hai hãy vào trình diện, thế là mạnh ai nấy tản hàng thật lẹ. Sáng thứ hai
cu Thận vào BTL/HQ trước, bị cấp trên dũa cho một trận vì tội “ai bảo các anh
tự ý tản hàng” về nhà, nó chỉ còn nước chối bai bải “thằng Trung nó là ks/TĐT
chứ đâu phải em”.
Khoảng tuần sau
chúng tôi được gắn lon với cấp bậc HQ Chuẩn Úy trong khuôn viên Hải Quân Công
Xưởng, phía sau BTL/Hạm Đội, với sự chủ tọa của HQ/Đại Tá NN Qùynh, người bưng
khay cấp bực của chúng tôi là Nữ SVSQ Xã Hội duyên dáng, khả ái LQ Lệ-Lan, sau
này nghe tin cô đã tử nạn trong một tai nạn trên chiếc HQ501 vào tháng cuối
cùng của cuộc chiến, tuy đau thương nhưng ít nhất cô đã không phải chứng kiến
cảnh đầu hàng, hay vứt bỏ bộ quân phục một cách tức tưởi mà cô đã tuyên thệ mặc
vào, xin thắp một nén hương xót thương cho cô “Hồng nhan bạc mệnh”. Hôm sau
chúng tôi tập họp tại câu lạc bộ nổi để lựa chọn đơn vị, theo thứ tự ưu tiên
đậu cao thấp, tôi may mắn nhờ có dính một tý chức sắc, nên được xếp hạng 11
trong tổng số 64 người ra trường, đợt này danh sách đơn vị có đầy đủ cả, từ hạm
đội, hải đội, đến duyên đoàn, giang đoàn và các căn cứ rất nhiều. Chúng tôi vừa
mới ra trường đầu óc còn trong trắng, mộng hải hồ vẫy vùng ngang dọc, chí khí
cao vời vợi, và lòng yêu tổ quốc ngùn ngụt cháy trong tim, ai cũng muốn đem tài
trai ra bảo vệ và gìn giữ quê hương, noi theo gương những vị anh hùng xa xưa,
nào Ngô Quyền, nào Trần Hưng Đạo, với chiến thắng sông Bạch Đằng lẫy lừng, có
một không hai trên thế giới, còn vang dội mãi ngàn thu, chỉ nghĩ có một điều là
sĩ quan hải quân thì phải đi tầu, chứ về đơn vị bờ thì chán lắm, nên cứ mỗi lần
thấy các bạn bè lên chọn, là lại một lần hồi hộp, thầm mong nó chọn các đơn vị
gần nhà, để còn tầu hạm đội chờ đến lượt mình.
(Hàng thứ nhất từ trái qua phải: N Thận, N Ngọ, TV Hường, TV
Cương. Hàng thứ hai: VĐ Tài, NT Đàm, 2 người kế bị che, & NCTD)
Trong 10 bạn đầu, có đến 7, 8 bạn chọn chiến hạm lớn, Khu
Trục hạm, Tuần Dương hạm, Dương vận hạm đều đã hết, đến phiên tôi mừng thầm vì
trong danh sách cũng còn ba con tầu, một Hộ tống hạm PCE, một tầu dầu và một
Y-tế-hạm HQ401, tuy không oai phong lẫm liệt như những chiếc kia, nhưng vẫn là
tầu đi biển, các hải đội còn nguyên. Tôi chưa có kinh nghiệm gì về các đơn vị
hải quân, cũng chẳng có liên lạc với bạn bè từ các khóa trước để thăm hỏi, nên
không biết loại tầu nào hơn loại nào,
duy chắc có một điều là cả ba con tầu này đều là loại cổ điển thiếu tiện nghi,
nên chỉ biết chọn tầu nào thường có những công tác ngắn hạn, một công hai
chuyện, thứ nhất cặp bến thường xuyên, thứ hai có cơ hội về Sàigòn nhiều hơn,
nên trong ba con tầu tôi đoán, Hộ tống hạm chắc là đi mút chỉ, tầu dầu hôi hám nghe
tên đã không thấy có gì vui rồi, vả lại là sĩ quan ngành chỉ huy, không lẽ tối
ngày chỉ đi tiếp tế dầu, chỉ còn Y-tế-hạm Hàn Giang, là loại tầu cũng tương đối
lớn của hải quân mình, cũng đi biển, lại có hy vọng đi công tác dân sự vụ nhiều
hơn, nên tôi chọn chiếc này cũng chẳng biết là may hay rủi, nhường Hải đội,
Giang đoàn cho các bạn chọn sau. Sau khi tất cả chọn đơn vị xong xuôi, chúng
tôi được lệnh hai ngày sau, vào phòng Tổng quản trị để nhận sự vụ lệnh trình
diện đơn vị mới, mọi người nhốn nháo bàn tán, hỏi han nhau về tin tức các đơn
vị, những bạn chọn được tầu hạm đội, hay được về đơn vị gần nhà thì vui vẻ, các
bạn lỡ phải đi giang đoàn, hay đơn vị xa nhà thì cũng hơi buồn và ưu tư, vì
kinh nghiệm tác chiến chưa có, mà sông rạch thì nhỏ, ngoằn ngèo dễ bị phục
kích. Tôi không có bạn bè thân thiết trong khóa nên cũng không có gì lưu luyến,
cũng chẳng nuối tiếc chần chờ, vội vã chia tay bạn bè ra về, để còn kịp ghé
thăm người yêu, trong lòng với ít nhiều thơ thới, vì tôi đã chọn được tầu, chứ
không phải về các giang đoàn tác chiến hay hải đội xa xôi, sau này nếm mùi đời
mới biết đúng là số trời, đi chiếc này ăn mì gói dài dài, và thiếu đủ mọi thứ
tiện nghi, bù lại khoảng tháng 5 năm sau cũng được theo tầu đi đại kỳ tại Guam
1 lần.
Từ Linh Nctd - 2008
No comments:
Post a Comment