Khi nhận được cú điện thoại từ văn
phòng Bác Sĩ Amin yêu cầu chàng lấy hẹn,
Duy đã linh cảm có gì không ổn, vì thường thì văn phòng gởi giấy thông báo kết
quả là đủ, chứ ít khi yêu cầu hẹn gặp Bác Sĩ, gặp chắc là có chuyện rồi. Duy
vội xin hẹn ngay, và may sao buổi chiều đó có chỗ trống, một bệnh nhân hủy bỏ
vì không đến được. Mặc dù đường từ sở đến phòng mạch chỉ mất độ 30 phút, Duy đã
rời sở 1 tiếng rưỡi đồng hồ sớm hơn, để đề phòng trường hợp kẹt xe cộ. Trên
đường đi, chàng nóng lòng muốn tới cho thật nhanh, mong sao con đường thu ngắn
lại, nhưng càng mong thì hình như con đường càng dài ra, và buổi xế trưa xa lộ
vắng vẻ, lại càng làm cho nó rộng hơn, mặc dù đồng hồ tốc độ đã chỉ 75 miles,
Duy vẫn đạp chân ga cho nhanh hơn chút nưã, những lằn kẻ trắng trên mặt đường
vùn vụt chạy ngược chiều đến hoa cả mắt, mà sao Duy thấy vẫn còn chậm, không thể chạy nhanh hơn vì sợ
bị ‘chốp’, Duy miên man suy nghĩ về trường hợp tai bên phải bị nghẹt khoảng hơn
hai tháng nay làm nước trong tai ứ đọng không thoát được, vì cớ gì, không lẽ
một cái bướu mọc chắn ngang, nhưng bướu lành hay dữ (?), mà Duy không hề cảm
thấy đau đớn gì cả, về cái mũi bị dị ứng từ mấy năm nay, uống thuốc hoài mà
không hết, và cứ về đêm hai lỗ muĩ tắc nghẹt không thở nổi, rất có thể bị viêm
muĩ. Mãy hôm trước Bác Sĩ Amin đã làm giải phẫu ngoại khoa để hút nước và đặt
một ống thông nhỏ trong tai, đồng thời ông cũng làm thử nghiệm tế bào chỗ bị
nghẹt, hôm nay đã có kết quả, không hiểu tin xấu tốt, lành dữ ra sao. Đang mải
mê suy nghĩ, thì đã tới nơi, chàng tới đúng như dự liệu sớm một tiếng đồng hồ,
nhân viên văn phòng phải ngạc nhiên vì quá sớm, nhưng Duy an tâm, thà sớm còn
hơn trễ, lại phải hẹn ngày khác, mấy văn phòng Bác Sĩ chuyên khoa, lấy hẹn thường
phải chờ mấy tuần mới có, ít khi gặp trường hợp bệnh nhân bỏ hẹn vào giờ chót
như hôm nay.
Chờ đợi hơn tiếng đồng hồ rồi cũng tơí lượt
được mời vào, ông Bác Sĩ chuyên khoa Tai mũi họng người Ấn đã đứng tuổi hỏi han
Duy từng chi tiết về tình trạng sức khoẻ, và hỏi có thấy khó chịu về cái ống
thông đặt trong tai hay không, Duy trả lời không thấy một cảm giác gì về cái ống đó cả, và hốc muĩ cũng thấy sạch
sẽ hơn rất nhiều. Ông khám lại tai, nhìn vào muĩ, và soi trong cuống họng, nắn
bóp các hạch ở cổ Duy rất kỹ lưỡng xem có khám phá gì không, nhưng chẳng có gì khác lạ, rồi ông
từ từ mở hồ sơ, lấy kết quả thử nghiệm và nhỏ nhẹ cho chàng biết là tin không
vui, thử nghiệm cho thấy có sự xuất hiện cuả những tề bào ung thư. Vưà nghe đến
hai chữ ung thư, Duy bỗng thấy bàng hoàng, ung thư! chứng bệnh quái ác này bây
giờ chàng đã mắc phải sao, như vậy thì nguy hiểm thật, Bác sĩ đưa cho chàng tờ
kết quả của phòng thử nghiệm và cắt nghĩa những chữ thuộc về chuyên khoa cho
chàng nghe, rồi ông đứng lên tiến lại bức hình mặt và đầu treo trên tường chỉ
cho chàng xem vị trí tế bào được thử nghiệm. Cầm tờ giấy vơí những giòng chữ:
‘các tế bào ung thư khác biệt đã phát hiện rõ rệt’ Duy cảm tưởng như có một
luồng điện chạy từ những chữ in trên đó chuyền vào tim rồi lên não và lan nhanh
đến khắp tứ chi, nỗi hoang mang lo sợ bắt đầu xâm lấn tâm trí, Duy thoáng rùng
mình, ngoài khuôn cưả sổ, vẫn ánh nắng chiều cuối Thu vàng óng lay động trên
các tàng cây, ngọn cỏ, phản chiếu trên từng khung cưả sổ cuả các tòa cao ốc bên
cạnh, nhưng bây giờ Duy thấy khung trời trước mặt như đã bị đám mây đen che
khuất, đôi mắt vẫn mở, nhưng sao bất động, chàng không còn ấn tượng những sinh
động trong đời sống chung quanh. Bác Sĩ vỗ vai chàng trấn an. "Anh hãy an
tâm, với kỹ thuật tân tiến về y khoa hiện đại, ung thư không còn là chứng bệnh
nan y nưã, rất nhiều bệnh nhân được chưã dứt hẳn, có bệnh nhân tái phát sau một
thời gian, lâu mau tùy theo từng cơ thể, có thể sáu tháng, một năm, năm năm ,
hay lâu hơn nưã không chừng". Duy cố gắng tĩnh tâm để nghe ông nói thêm về
những điều cần phải làm, rằng chàng vẫn nên sinh hoạt đều đặn, vẫn giữ mọi sự
liên hệ với vợ con như bình thường, và cứ tiếp tục đi làm, rằng điều nên biết
là bệnh ung thư không phải là căn bệnh truyền nhiễm, không xâm nhập từ bên ngoài,
mà nó do chính cơ thể bệnh nhân phát sinh ra, nên không có gì phải kiêng cữ, và
kết quả thử nghiệm này không thể định rõ bệnh trạng nặng nhẹ, phải chờ chụp MRI
(Magnetic Resonance Imaging) mới biết rõ (đây là một phuơng pháp chụp các tế
bào mềm bằng phóng xạ trường liên tục mấy chục tấm hình trên những mặt phẳng
khác nhau cách khoảng hai centimeters một), ông sẽ gởi báo cáo về Bác Sĩ gia đình để cho chàng chụp hình và điều trị.
Nghe tới đây, Duy vội quay về với thực tế
hiện hữu, với căn bệnh hiểm nghèo vưà phát giác, Duy nghĩ sự định bệnh kịp thời và điều trị sớm là điều
quan trọng không thể chần chờ, nếu để văn phòng gởi thư đi thì chắc phải đợi
một hai tuần mới chụp hình được, và chưa biết đến bao giờ mới bắt đầu điều trị,
trong khi đó ung thư có thể biến chuyển rất nhanh, chàng vội yêu cầu Bác Sĩ cho
chàng bản sao kết quả thử nghiệm, và xin ông viết cho một toa chụp hình, chàng
sẽ mang tay về đưa cho Bác Sĩ gia đình, ông ta chấp thuận ngay không một chút
do dự.
Rời văn phòng Bác Sĩ Amin, chàng phóng xe tới văn phòng Bác
Sĩ Solow, đường về gặp giờ tan sở, nên
xe cộ khá đông, lách qua bên trái, tránh về bên phải, Duy cố lái nhanh để kịp
đến nơi trước khi văn phòng đóng cưả, đồng thời cũng phải cẩn thận canh chừng
mấy chú bạn dân nưã, nếu bị sì-tốp lại bây giờ thì mọi việc sẽ phải chờ đến
ngày mai, nên Duy chẳng bận tâm đến căn bệnh nưã. Cũng may trên đường chẳng gặp
trở ngại gì, tới nơi Duy trao giấy cho nhân viên và nhỏ nhẹ yêu cầu cô đưa dùm
cho Bác Sĩ ngay, và chàng sẽ liên lạc với văn phòng vào sáng mai, người nữ tiếp
viên quen thuộc cầm giấy và biến sau cánh cửa khu vực bác sĩ khám bệnh.
Đã hơn ba giờ sáng Duy vẫn trằn trọc không
giỗ nổi giấc ngủ muộn, đêm nay là ba đêm mất ngủ kể từ hôm biết tin bị ung thư,
mặc dù rất mệt mỏi, và đã mất sức rất nhiều, nhưng hễ cứ nằm xuống là nước mắt
lại tuôn rơi, và dù biết phải trấn an tinh thần, tĩnh dưỡng, nghỉ ngơi hầu giữ
gìn sức khỏe để chống lại bệnh tật là điều thiết yếu, nhưng làm sao Duy có thể
ngủ yên khi mà trách nhiệm còn quá nhiều và căn bệnh thì chưa biết ra sao. Con
người ai cũng một lần chết, Duy không sợ
chết, ‘sinh, lão, bệnh, tử’’ là lẽ thường tình của con người, nhưng chết mà bổn
phận chưa tròn thì ra đi không được thảnh thơi. Vợ dại, ba đứa con thơ, mẹ đã
già yếu, nghĩ dại nếu chẳng may số chàng...thì con cái sẽ ra sao, ai là người
sẽ hướng dẫn, giáo dục chúng cho đến khi trưởng thành, vợ chàng không thể cáng
đáng nổi, nàng sẽ vất vả trăm bề, nhất là lúc con cái ốm đau, mẹ già trái nắng
trở mưa thì sao. Nên Duy cứ lo lắng khôn nguôi, càng nghĩ càng không cầm nổi
nước mắt. Mãy hôm nay Duy đã ghi lại tất cả những gì phải làm hàng tháng, hàng
năm cho Quyên, hướng dẫn Quyên ký từng hoá đơn nhà cưả, điện, nước...., từ bảo
hiểm xe cộ cho đến trương mục ngân hàng, qũy hưu bổng và an sinh, mong sao cho
Quyên hiểu và tự làm rành rẽ công việc trong đời sống hàng ngày trước khi quá
muộn, và đừng để mất mát hay quên lãng những quyền lợi nếu có, vì nếu không có
chàng, thêm được đồng nào là các con sẽ no thêm được bưã ấy. Công việc giấy tờ
sổ sách hoàn toàn xa lạ đối vơí Quyên, vì từ ngày lấy nhau mười năm nay Quyên
không hề mó tay vào, thứ nhất đã có chồng lo, thứ hai cũng vì chữ nghiã ít ỏi
nên Quyên rất lúng túng. Duy cẩn thận căn dặn Quyên những khi gặp khó khăn thì
sẽ hỏi ai, ai là người có thể tin cậy được về mặt tinh thần..., vì Duy nghĩ
tính Quyên quá bình dị và thành thật nên không thể hiểu nổi cuộc đời, nhưng cho
dù dặn dò hết mọi thứ, chưa chắc Quyên đã làm được chu đáo, vì vậy nên Duy cũng
đã nhờ cậy vợ chồng một người bạn giúp đỡ cho Quyên trong trường hợp vắng
chàng.
Người ta thường nói ‘Trời sinh voi, trời
sinh cỏ’ với Duy đó chỉ là câu nói chơi , bông đuà, chứ không thể áp dụng vào
đời sống thực tế được, bởi trên thực tế voi thích ăn miá, chứ không thích ăn
cỏ, mà ngay cả cỏ ở xứ Mỹ này cũng phải mua, chứ có lấy không ở đâu được. Rồi
những buồn vui, những may rủi, những thăng trầm cuả cuộc đời, ai là người chia
sẻ, an uỉ vợ con. ‘Vắng cha như nhà không nóc’, nhà không nóc thì đủ hiểu,
những khi mưa gió, giông bão sẽ ra sao. Nếu như chàng phải ra đi, không biết
các con sẽ khóc và buồn biết bao! rồi Duy tự nhủ thầm kể từ nay trở đi, dù còn
sống được bao lâu chàng sẽ hết lòng thương các con, nhất định sẽ không rầy la
các con nữa, chàng mong cho mau đến cuối tuần để đưa các con đi mua cho mỗi đưá
một món đồ chơi, mấy tấm Pokémon mà các con thích từ lâu, sợ như cuối tuần sẽ
không bao giờ đến, lại nhớ đến bài thơ tiếng Anh được luân chuyển qua điện thư,
‘‘If tomorrow never come’’.
Nếu biết ngày mai không bao giờ tới,
Tôi sẽ ôm con tôi thật lâu hôm nay
Nếu biết ngày mai không bao giờ tới
Tôi sẽ hôn vợ tôi thật dài bây giờ
Nếu biết ngày mai không bao giờ tới
Tôi sẽ cho bạn nụ cười mãi mãi
Duy sợ không dám đọc thêm nưã vì nước mắt
cứ tuôn trào, trong cuộc đời, chàng đã chứng kiến và đã thấy nhiều những trẻ
thơ mồ côi, không cha, không mẹ, đời sống đâu thấy tương lai, Duy vẫn thường
trách ông trời oái oăm quá, sao không hành hạ người lớn, mà lại bắt những trẻ
thơ phải lìa cha, mất mẹ, mất tình thương thiêng liêng qúa sớm, chẳng phải ai
xa lạ, chính vợ chàng, Quyên cũng là một trong những trẻ thơ kém may mắn đó,
mất cha và xa mẹ ngay từ thưở thiếu thời, Quyên đã đếm tương lai mình không ở
trên những trang giấy học trò như những trẻ em khác.
Ở xã hội Mỹ mặc dù có cơ quan chính quyền hay
các hội từ thiện giúp đỡ gia đình có con nhỏ mà chỉ có một cha hay một mẹ, hoặc
nhiều gia đình nuôi con nuôi y hệt như con ruột, nhưng thành thực mà nói bất cứ
sự giúp đỡ nào từ bên ngoài dù tốt đến đâu chăng nữa cũng chỉ có giới hạn và
tạm bợ, trên cõi đời này không có gì có thể thay thế tình thương ruột thịt cha
mẹ được, không có sự liên kết máu mủ thì không thể có tình thương chân thật và
gắn bó dài lâu. Nhất là với nguờI Việt, Duy đã thấy nhiều gia đình kể luôn cả
bà con thân thuộc nuôi cháu rất thờ ơ, hay nhận con nuôi hoàn toàn chỉ là một
hình thức che đậy bên ngoài. Duy cũng chẳng thể trông mong vào các em chàng, vì
mỗi người một hoàn cảnh, ai cũng có gia đình riêng, và con cái đều còn nhỏ, vả
lại các em Duy mới qua Mỹ được vài năm, chưa hoàn toàn thông hiểu xã hội mới
này, cuộc sống rất vất vả, còn phải vật lộn nhiều, thì làm sao có thể giúp đỡ
con chàng được.
Trong mấy năm qua Duy cũng có vài người bạn
thân đã ra đi, hai trong số đó bị ung thư, một ung thư máu và một ung thư ngũ
tạng, cả hai đều qua đời vỏn vẹn trong vòng hơn một năm kể từ khi khám phá căn
bệnh, mỗi người để lại một con thơ trên một tuổi, hai người bạn đã khóc thật
nhiều, không an tâm bỏ con bơ vơ giưã chợ đời, nhưng chỉ vì không cãi nổi mệnh
trời, các bạn Duy đã ra đi trong niềm ray rứt khôn cùng. Nhìn hai đưá trẻ thơ
vô tội, ngây ngô bập bẹ dăm chữ ‘bố đang ngủ’ Duy đã không thể cầm nổi nước
mắt.
Con người ta bình thường mạnh khoẻ, vui vẻ
thì chẳng mấy ai nghĩ đến Trời, Phật hay Thiên Chúa, nhưng khi bệnh hoạn ốm đau
thì lại hay cầu cứu và bấu viú đến các đấng linh thiêng, hình như đó là liều
thuốc an thần để tự lưà dối và an uỉ chính bản thân, Duy cũng không tránh khỏi
cái bản tính bẩm sinh ấy, mấy đêm nay đêm nào chàng cũng khẩn cầu Trời, Phật,
cả Chuá Jesus lẫn Đức Mẹ Maria nưã, mặc dù bình thường Duy chẳng phải là một
Phật Tử thuần túy, lại càng không phải một con chiên ngoan đạo, chàng chỉ đi lễ
chùa vào những dịp lễ lớn hay tết nhất mà thôi, Duy thầm khấn vái trong đầu,
cầu xin các đấng linh thiêng phù hộ, che chở, cho chàng thoát qua căn bệnh hiểm
nghèo, cho dù có phải cực nhọc thế nào chăng nữa miễn sao sống để chu toàn xong
bổn phận làm cha, làm chồng, nuôi con cái đến khi chúng trưởng thành, khôn lớn.
Càng cầu nguyện bao nhiêu thì nước mắt lại
càng tuôn ra nhiều bấy nhiêu, mà tâm tư cũng chẳng yên ổn được chút nào, thật
ra Duy không có niềm tin nhiều vào sự cầu nguyện sẽ đem lại kết qủa, vì nếu cầu
mà được ý nguyện được thì trên đời này không ai chết cả, và chẳng ai gặp hoạn
nạn, nhưng tại sao vẫn có người sống và vẫn có người chết, chắc chắn phải có
những sự huyền bí linh thiêng mà con nguời không thể thấu triệt được, hẳn con
người ta có số mệnh, hoặc là hưởng phúc đức cuả tiền nhân, hoặc là do căn
nguyên thiện ác từ tiền kiếp cuả chính người đó, vậy có thể những người ăn ở
hiền lương lời cầu cuả họ được hưởng ân độ hơn chăng. Duy không tin là Trời,
Phật hay Thượng Đế lại có thể bất công cho người này được sống và bắt người kia
phải chết, nhưng chẳng còn cứu cánh nào khác, Duy định bụng sẽ không cầu xin
nữa mà chỉ niệm Phật và Bồ tát để cho tinh thần được thư thái mà thôi.
Hôm nay Duy làm có nưả ngày, chiều nay chàng
có hẹn mang phim đến bác sĩ xạ tuyến, nên ra về lúc trưa, trở xuống tận thành
phố Newport Beach, cách xa 30 dặm đường để lấy phim MRI rồi mang ngược trở lại
Orange trung tâm điều trị xạ tuyến, qua phim bác sĩ tìm ra vị trí một cái bướu nhỏ mọc trong vùng
sau cạnh hốc mũi gọi là vùng Nasopharynx, ông cho biết bướu còn trong thời kỳ
phôi thai, to bằng đầu ngón tay út, và chưa thấy lan xuống các hạch (lymph
nodes) ở cổ, Duy mừng thầm và cảm thấy nhẹ nhõm. Nếu như trong cái ruỉ có cái
may, thì đây đúng là trường hợp cuả chàng, mặc dù vẫn là một căn bệnh nguy
hiểm, nhưng biết sớm thì cơ hội điều trị sẽ dễ dàng hơn và kết quả sẽ có nhiều
hy vọng hơn, chàng tự nhủ sẽ cố gắng chuẩn bị tinh thần thật bình tĩnh, giữ gìn
sức khoẻ trong những tháng ngày kế tiếp để trị bịnh, Duy thầm tạ ơn Trời, Phật,
Thượng Đế đã cho chàng những dấu hiệu sớm để khám phá kịp thời, có thể là lời
cầu khẩn cuả chàng đã được các đấng thiêng liêng đáp ứng, cảm ơn các vị bác sĩ,
các nhân viên y tá và cô Rosa người Mễ, nhân viên liên lạc bệnh nhân cuả công
ty y tế nơi Duy khám bệnh đã làm giấy giới thiệu đến các bác sĩ chuyên khoa và
giúp chàng lấy hẹn chụp hình thật nhanh chóng, và tất cả đều đưa Duy trao tay
hết, nhờ vậy mà hôm nay chàng đã rõ căn bệnh và có đôi chút an tâm.
Khác hẳn ba đêm trước, đêm nay nước mắt đã
không tuôn lả chả, mặc dù vẫn khó mà giỗ giấc ngủ yên như bình thường, nhưng
bệnh trạng còn nhẹ, chàng hy vọng sẽ điều trị dứt hẳn được, bớt đi những lo sợ
viển vông, tinh thần cũng bớt căng thẳng. Duy chú tâm ghi nhớ những việc phải
làm cho từng ngày tới. Ngày mai sẽ có buổi hẹn với bác sĩ về đầu và mặt để khám xương hàm và răng lợi,
rồi phải xin hẹn chụp X-ray xương quai hàm xem có bị hư hỏng hay nhiễm trùng
không, vì theo lời bác sĩ nếu như xương hàm và răng bị nhiễm trùng thì phải
chưã cho khỏi đã mới làm xạ tuyến được, nếu không vết thương sẽ khó lành một
khi điều trị xạ tuyến qua những vùng đó, vì xạ tuyến sẽ làm cho các mạch máu
teo nhỏ lại, lượng máu dẫn đến các nơi thương tích sẽ giảm thiểu rất nhiều,
xương sẽ bị rỗng và cơ thể sẽ khó chống lại sự xâm nhập cuả vi khuẩn vào vùng
thương tích. Tất cả những công việc này, Duy phải cố gắng hoàn tất trong vòng
vài ngày để sự điều trị có thể bắt đầu sau tuần kế tiếp. Đồng hồ đã chỉ 2 giờ sáng, Duy vẫn chưa ngủ được, quay qua
nhìn Quyên trong giấc ngủ say, chàng mừng thầm cho tính vô tâm của Quyên, mấy
hôm nay nàng cũng lo lắng lắm, chịu khó theo dõi những điều chàng hướng dẫn.
Duy nhỏm dậy qua phòng các con, chàng nhẹ nhàng kéo chăn lên đắp cho con và hôn
trên trán các con, nước mắt lại rưng rưng, ngang qua phòng mẹ, mẹ già trở mình
chưa ngủ, bình thường mẹ cũng ngủ trễ và rất ít, mấy hôm nay lại càng thao thức
nhiều hơn, vì thêm nỗi lo lắng buồn phiền, Duy trở về phòng, ngả lưng nằm xuống
cạnh vợ, trong đầu lại miên man suy nghĩ, phải chi cách đây vài tháng khi có
anh bạn mời mua bảo hiểm nhân thọ chàng mua quách cho rồi thì dù có xảy ra
chuyện gì Quyên cũng đỡ phải lo lắng về mặt tài chánh, bề gì vợ con chàng cũng
được bảo đảm có mái nhà che nắng che mưa, chứ bây giờ thì quá trễ, hồ sơ y tế
đã ghi rõ bệnh trạng, khó mà có nơi nào bán cho chàng nưã. Nghĩ quanh nghĩ quẩn, nghĩ lung tung rồi lại
nghĩ đến mẹ già, không lẽ chàng lại ra đi trước mẹ, ngày xưa khi bà nội mất,
chàng đang thụ huấn ở Mỹ, nên không có mặt, rồi lần lượt đến mẹ lớn, và phụ
thân chàng qua đời năm 1983, Duy cũng không về được, vài năm trước người anh cả
qua đời Duy cũng không về, không lẽ bây giờ còn một mình mẹ, chàng lại bỏ ra đi
trốn nợ hết cả mẹ cha? Duy cố nhắm mắt thì thầm những lời khấn niệm Trời, Phật,
Chuá và niệm Quan Thế Âm Bồ Tát để dỗ giấc ngủ muộn màng, hy vọng sau cơn mưa
trời lại sáng!
Từ
Linh Nctd
02-2000
No comments:
Post a Comment