Bây
giờ là tháng 12 thông thường trời đã lập đông nhưng thời tiết năm nay vẫn chưa
lạnh lắm, tôi nhớ cách đây năm (5) năm khi chưa nghỉ hưu mỗi sáng lái xe ngược
lên hướng bắc trên xa lộ 55 rồi rẽ về hướng đông xa lộ 91, nhìn trên đỉnh núi phía
bắc xa lộ nhiều năm mới tháng 10 đã thấy có tuyết phủ đầu non rặng San
Bernadino, và trên vùng Big Bear mùa này đã nhộn nhịp người lên trượt tuyết khó
khăn lắm mới đặt được phòng, nhưng năm nay tuyệt nhiên vẫn vắng lặng, trên đỉnh
núi vẫn một mầu đen nắng cháy, chắc hẳn đó là ảnh hưởng của sự hâm nóng địa cầu
mỗi năm thêm rõ rệt và nặng nề hơn. Chênh chếch về hướng đông, mặt trời đã lên ngọn
hàng cây cọ (palm) chung quanh bãi đậu xe ở cuối chân cầu bán đảo Balboa, tôi
nhìn quanh chọn chỗ đặt cái ghế xếp bằng vải bố cạnh vọng quan sát của nhân
viên cứu nạn trên bãi biển, rồi thả người ngồi nghỉ xả hơi hóng gió, sau khi vừa
đi ráp một vòng từ cầu Newport Beach xuống cầu Balboa nằm ở phía nam, quãng
đường dài khoảng độ 3.4 dặm (5.47 Km) như bình thường mỗi tuần vài ba buổi, để
giúp cho tim mạch lưu thông điều hòa trở lại, nhất là sau lần phải thông mạch
tim cuối mùa xuân năm ngoái. Với tay nhấc cái bình thủy nhỏ trong túi sách đưa
lên miệng chậm chạp nhấp ngụm cà phê còn nóng ấm, hương cà phê thơm thoang
thoảng làm tôi cảm thấy dễ chịu nhẹ nhõm người. Một mình ngồi lặng lẽ thả hồn
theo những làn sóng biển ngoài xa chạy vào vỗ ì ầm lên bờ cát trước mặt, bắn tung
cao những làn bọt nước trắng xóa, và bụi nước phất phơ bay vương vào mặt lành
lạnh; mờ mờ tít chân trời xa có con tầu hàng hải viễn dương âm thầm tiến về phía
cuối chân trời, trong cái khoảng cách của tầm mắt, một con thuyền đánh cá lững
lờ chậm chạp trôi giữa làn sóng nước bao la khiến tôi hồi tưởng về dĩ vãng, nhớ
lại những con tầu cũ ngày xưa đã cho tôi một thời ngụp lặn với sóng nước đại
dương. Tuy thời gian chưa đủ thoả chí tang bồng, nhưng cũng đủ ghi vào tâm khảm
những kỷ niệm buồn vui, những tháng ngày huy hoàng và uất nghẹn của cuộc đời người
thủy thủ trẻ làm nghiã vụ bảo vệ quê hương. Chỉ vỏn vẹn 5 năm 5 tháng tôi đã
được nếm đủ mùi từ sông đến biển nhờ đó cuộc đời cũng thêm chút thi vị; Nhớ
những ngày sau khi ra trường chọn đơn vị tôi chọn chiếc Hải vận hạm Hàn Giang (HVH/HQ401)
thay vì Hải Đội, làm đơn vị phục vụ đầu tiên đời binh nghiệp, con tầu được sử
dụng như một Y tế Hạm; Ngoài số Sĩ quan và đoàn viên chính như bất cứ một tầu HVH
nào khác, nó được bổ xung thêm một Trung Úy Bác Sĩ Quân Y, vài y tá và 1 Trung
Úy Nha tá, tầu chuyên làm công tác dân sự vụ như đi khám bệnh miễn phí cho đồng
bào, trong các vùng sông ngòi miền hậu giang hay các thị xã dọc bờ biển nam VN,
trải dài từ cửa Tùng vào tận Phú Quốc, đôi khi thực hiện công tác khác như chở
phái đoàn này nọ quân dân cán chính tới vùng nào đó; Nhớ lúc lên ca hải hành mang
cái cảm giác lâng lâng ngây ngất khó tả làm sao ấy, nhất là “ca cách mạng” nửa
đêm, mà mọi thủy thủ đều ngán ngẩm vì trong khi người người an giấc thì mình
phải đi phiên, trên đài chỉ huy thường chỉ có 2 Sĩ quan và 2 nhân viên âm thầm
làm việc, con tầu bồng bềnh lầm lũi rẽ nước chầm chậm trong đêm giữa trời nước
bao la đen thui thủi, nghe gió lồng lộng thổi, cái cảm giác cô đơn trống trải
và nhớ nhung mang mang sầu, nếu may mắn đêm có trăng sao thì cũng tuyệt, nhìn
những đợt sóng lóng lánh dưới ánh trăng bàng bạc, bọt nước trắng xóa vỡ tung
trước mũi tầu, các chàng có người yêu tha hồ mà mơ mộng, nhưng không phải ai
cũng thích: “lênh đênh triền sóng, thấy lung linh rừng hoa” (*) ngược lại cũng
có chàng chỉ thấy “Mầu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm, ngất ngây … buồn nôn” mà thôi; Nhớ tấm bản đồ hải
hành, cái la-bàn đo góc độ, và cặp thước song song kéo qua kéo lại chấm tọa độ để
định vị trí mỗi đầu giờ và chỉnh hướng con tầu cho đúng đường hải hành mà Hạm Trưởng
đã chọn. Lên ca đêm nhiều khi cũng hồi hộp thần kinh căng thẳng vì nếu lỡ đi
ngang vùng Phan Thiết, Phan Rang sẽ gặp cảnh thuyền chài giăng lưới đông như
mắc cửi suốt từ bờ ra tận mấy hải lý ngoài xa, chắn ngang hải trình của những con
tầu Hải vận hạm (LSM) trung bình, từ quan đến lính phải trống mắt mà nhìn cho
kỹ những ngọn đèn bão le lói trong đêm của những con thuyền giăng đánh cá mà
tránh, lạng quạng chân vịt cuốn lưới thì chỉ có nước chờ ngày sau thuê người
lặn xuống cắt mới mong chạy được, đôi khi còn bị dân thưa kiện không chừng nếu
như họ đọc được số tầu, những loại tầu tuần dương hay vận tải cỡ lớn như Dương-vận-hạm
(LST) đi xa bờ có lẽ không bị cảnh này. Chiếc Y tế hạm HQ401 cũng cho tôi một
may mắn lại thêm chuyến xuất ngoại dù chỉ là đi Guam để đại kỳ trong 3 tháng,
vì có đi ra khỏi nước mới được ăn uống đầy đủ, và chút tiền lương còm để dành,
bằng không cuộc đời lính tráng dù là quan quách của xứ nhược tiểu nghèo nàn
cũng đói rách mồng tơi. Nói về những loại tẩu chuyên chở dân thường ít ai gọi
hay biết với những danh xưng chuyên môn hải quân như Hải vận hạm hay Dương-vận-hạm
mà đại đa số quen gọi với cái biệt danh “tầu há mồm”, vì kể từ sau cuộc di cư
vào Nam của gần triệu người dân đất Bắc trốn chạy cộng sản sau hiệp định đình
chiến Geneve 1954 chia đôi đất nước Việt, hình ảnh những con tầu này đã in đậm
nét trong trí nhớ người dân Việt. Ngay trong ký ức nhỏ bé của tôi hình ảnh ngày
nào ngỡ ngàng bước chân vào lòng con tầu há mồm to lớn cái cảm giác đầu đời lạ
lùng và thán phục như vẫn còn nguyên vẹn, vẫn còn mới tinh, thế mà thời gian đã
trôi qua hơn nửa thế kỷ, gần một đời người, tôi lại còn có được duyên kỳ ngộ là
phục vụ trên nó khi trưởng thành, không biết đó có phải là con tầu mà thằng bé
tôi đã ngồi im giữa sàn tầu ngước nhìn những chàng thủy thủ Pháp, Việt đứng
trên boong cao vời vợi với hàng trăm người di cư khác hay không. Nhớ những ngày
cuối cùng trên con tầu tuần cận duyên bé tí teo (PCF/Patrol Craft fast) vượt
vịnh Thái Lan trong mùa biển động, và trong hỗn loạn bàng hoàng xen lẫn uất
nghẹn của người dân miền nam tự dưng trở thành người thua cuộc, nhưng chắc hẳn
những người được mệnh danh bên thắng cuộc cũng ngỡ ngàng, sửng sốt không kém vì
bỗng nhiên họ đã nhận dạng được sự thật về đời sống của quân dân miền Nam hoàn
toàn trái ngược những gì họ đã được đảng và nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt tuyên
truyền dạy dỗ, học tập rỉ rả từ bao năm qua, để khơi động lòng ái quốc và thúc
đẩy giới trẻ miền bắc hăng hái lên đường vào nam làm nghiã vụ “chống Mỹ cứu
nước, giải phóng đồng bào ruột thịt miền Nam khỏi cảnh nô lệ lầm than”, vỡ lẻ ra
là chính họ vừa được giải phóng khỏi cái hỏa mù trí tuệ, đầu óc bị nhét đầy mớ lý
thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Đang ngồi nghĩ ngợi lung tung chợt thấy một
bóng người đổ dài đi về hướng mình rồi dừng lại bên cạnh, tôi ngước nhìn sang bên
một người Mỹ già tóc bạc trắng phau cũng độ tuổi thế hệ “Trẻ thơ đua nở” (Baby
boomer) đâu đó, người đàn ông Mỹ cất tiếng chào xã giao, tôi chào lại trong lúc
ông tiếp tục ngay:
- Có phải
ông là người ViệtNam?
- “Phải!” tôi đáp; ông ta liền buông một câu
tiếng Việt: “Chào ông, mạnh giỏi!” Tôi chào lại cũng bằng tiếng Việt và đứng
lên bắt tay, trong bụng thấy vui vui nghĩ thầm “Lại một cựu chiến binh Hoa Kỳ của
cuộc chiến VN!” Người Mỹ già giới thiệu tên John và thản nhiên ngồi phệt xuống
cát cùng lúc cất tiếng “Ông cứ ngồi tự nhiên!” tôi ngồi xuống và hỏi “Chắc ông
cũng từng tham chiến ở VN”? người đàn ông Mỹ gật gù “Phải” và bắt đầu kể chuyện
cuộc đời ông tham gia chiến trận VN vào những năm 1967-1969 lúc đó ông 23 tuổi,
trong nhiệm vụ một phi công trực thăng Thủy quân Lục chiến, phi đoàn ông đóng ở
phi trường Đà Nẵng, ông nhanh nhẩu khoe là ông đã lãnh hai viên đạn AK trong
một phi vụ đổ quân ngoài bìa làng, trận này bọn VC đã bố trí những tay súng bắn
sẻ núp trên ngọn cây dừa để chờ trực thăng đổ quân tới thì nã súng, rất may là không
một chiếc nào bị nạn, chỉ mình trực thăng của ông lãnh vài viên nhưng không bị
bất khiển dụng và ông đã đáp được xuống hậu cứ hành quân an toàn, sau đó ông
được bốc về bệnh viện dã chiến HK điều trị, may mắn ông không bị mang thương
tích nặng, chỉ mất hai tuần nằm bệnh viện, ông nghe nói ngay sau đó thì đoàn
trực thăng hộ tống Cobra (Rắn hổ) đã đốn ngang tất cả những ngọn dừa quanh khu
vực đổ quân, nói rồi ông vén tay áo cho tôi coi vết thẹo ở phần trên cánh tay
trái còn 1 viên trúng đùi; Ngưng một chút ông hỏi tôi có phải nhập ngũ không vì
ông nghe những người bạn phi công VN nói thanh niên đến tuổi đều bị gọi động
viên. Tôi trả lời có, tôi cũng phải đi lính như mọi người và tôi đã tình nguyện
vào binh chủng Hải quân, cũng rất may mắn tôi không bị thương tích gì cả cho
đến khi tàn cuộc chiến. Trẩm ngâm chút ông nói: “Đúng ra là tôi đã không bị
những viên đạn này nếu tôi không tình nguyện gia hạn ở lại!” Tôi hơi ngạc nhiên
hỏi tại sao vậy! Ông kể là ngay trước khi lên đường sang chiến đấu ở VN thì cô
bạn gái đã cực lực phản đối, bởi cô theo phe phản chiến chống chiến tranh, cô
khuyên ông chống lệnh nhưng là một quân
nhân nhất lại là Sĩ quan ông không thể nghe theo cô, nên sau khi ông sang VN vài
tháng thì cô đã quyết định hủy bỏ dự tính cưới nhau khi ông mãn nhiệm kỳ 1 năm,
vài tháng sau đó cô ta đi lấy chồng, khiến ông buồn nên đã ký gia hạn ở lại.
- Tôi nói vài câu như để chia sẻ cùng ông “Cuối
năm 1970 khi được đến Hoa Kỳ học hải nghiệp chúng tôi cũng được thấy và nghe
nhiều tin tức về phong trào phản chiến tại Mỹ, và nhất là sau khi chiến tranh
chấm dứt đặt chân đến Hoa Kỳ, tôi càng biết nhiều hơn về những cựu chiến binh
Hoa Kỳ tham chiến tại VN khi trở về đã bị xã hội ngược đãi như thế nào, nỗi khổ
của các anh chẳng thua gì niềm đau của những người chiến sĩ VNCH chúng tôi là
mấy”.
- Người cựu chiến binh Hoa Kỳ nói “Dĩ nhiên
trong tập thể lớn như quân lực Hoa Kỳ thì thế nào cũng có một vài cá nhân làm
bậy, tuy nhiên không thể lấy đó để chỉ trích chung cho tập thể, nên tôi không quan
tâm đến những phê phán của dư luận và tôi vẫn hãnh diện cho những gì tôi đã làm
khi phục vụ trong quân đội. Tôi cũng có những người bạn Không quân VN rất tốt
và can đảm”.
- Tôi tiếp lời ông: “Tuy nhiên bây giờ tôi thấy
công luận và dân chúng Mỹ đã trả lại sự công bình và phục hồi danh dự cho các
anh, còn chúng tôi những người quân cán chính VNCH vẫn còn bị đảng và nhà cầm
quyền csVN xỉ nhục, họ không dạy cho giới trẻ VN học sự thật của lịch sử, họ luôn
che đậy và tiếp tục bôi nhọ chính quyền VNCH cũ, không biết đến bao giờ thì
công bằng và sự thật mới được trả lại cho chúng tôi!”.
- “Tôi nghe nói vẫn còn nhiều quân nhân VNCH
ghét chính phủ Mỹ vì đã bỏ rơi miền nam VN để họ bị cs thôn tính, ý kiến của
anh thế nào khi phải buông súng đầu hàng!”
Suy nghĩ vài giây tôi nói: “Trước đây tôi cũng
nghĩ như vậy, nhưng bây giờ là công dân HK tôi thấy chính phủ HK cũng phải đặt
quyền lợi quốc gia HK và nguyện vọng của nhân dân lên trên, cho dù nguyện vọng
đó đã bị hướng dẫn và lèo lái sai lệch bởi truyền thông một chiều, tôi không
trách cứ họ. Cá nhân tôi cũng chẳng hổ thẹn khi phải buông súng đầu hàng, vì ai
cũng biết một VNCH nhỏ bé và kiệt quệ trong chiến tranh thì không thể đối đầu
với cả khối cs quốc tế khổng lồ, cùng kho vũ khí tối tân vô giới hạn được đưa
vào VN để giúp nhà cầm quyền cs miền Bắc, tôi rất hãnh diện đã được chiến đấu
để bảo vệ lý tưởng Tự do Dân chủ của nhân dân miền Nam VN”.
Người Mỹ
gìa mỉm cười tiếp “Chúng ta đều là những người thua cuộc trong trò chơi chính
trị giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh”; Tôi xen vào “Để cuối cùng thì Tự do Dân
Chủ mà Hoa Kỳ chủ xướng đã mất về tay CS ở Đông Nam Á chỉ vì người Mỹ không bao
giờ dám cứng rắn đối đầu với những mưu mô qủy quyệt và thâm độc của những con
cáo già thành tinh cộng sản, dù là cs Nga, Tầu hay Việt”.
Người Mỹ
gìa vừa nói vừa đứng lên “Anh nói đúng!” Tôi cũng đứng dậy, chúng tôi bắt tay
từ gĩa với nụ cười thông cảm.
Nctd, Dec. 2016
(*) Trích lời bài “Hoa biển của Trần Thiện Thanh
& Anh Thy”